5/3 Thiên đường của những kẻ chậm chân.

Chúng ta là những kẻ được tái sinh trong vũ trụ thực tại mà chúng ta đang sống. Trong vòng  15 tỷ năm qua, chúng ta được hình thành và được định hướng thêm hình dáng, đặc tính sinh sản, hấp thụ năng lượng và tuổi thọ, tổng quan của nó là một tỷ năm. Chúng ta xét thấy, mình mới tồn tại khoảng 500 triệu năm, và đạt được tuổi trưởng thành,( tuổi sức sống là 6 tuổi). Chúng ta cầu mong sống được 20 tuổi trưởng thành ( 300 năm) hoặc 200 tuổi trưởng thành. (Tức là 3.000 năm). Nếu so với VTVT, thì giấc mơ đó là quá nhỏ bé, sinh linh VTVT sẽ tái sinh từng chặng 5. 000 năm- 10. 000 năm tuổi. Bởi vì họ là bất tử, họ có thể hy sinh trong khi làm nhiệm vu tiếp nhận và biến đổi năng lượng. Họ có kích thước không giới hạn và sở hữu trí thông minh vô tận. Liên tục và sắp đặt của VTVT. Các cá nhân sinh linh mở nằm trong một sinh linh mở khác và những sinh linh mở lớn hơn, lại nằm trong sinh linh mở lớn hơn nữa, cho tới sinh linh cuối cùng vị trí 0. và ta gọi đó là nerron của hệ VTVT, tại đây sẽ có vô tận các nơ ron đó.


 


               5.3.1 Chúng ta được tái sinh ra để làm gì?


 


                 Các sinh linh VTVT đã nằm trong hệ điều hành từ rất lâu rồi. Các vụ nổ lớn thỉnh thoảng xảy ra, trong đó có vụ nổ tái tạo vũ trụ thực tại của chúng ta. Họ phải bảo vệ trí tuệ vũ trụ cộng hưởng với vũ trụ vô tận đàn hồi. Và tiếp nhận năng lượng cũng như chuyển hóa nó thành năng lượng sinh hóa, và đó cũng là nguồn sống của sinh linh bất tử.


                             Chúng ta được đặt vào một giả thuyết rằng tương lai sự tái hòa hợp giữa con người và sinh linh vũ trụ vô tận sẽ gặp nhau ở một loạt các điều kiện cần thiết, đó la:


Thứ nhất sự sinh sản  sinh học đơn giản sẽ được kết hợp các kỹ thuật khác để làm bền vững lại cơ thể sinh học vốn rất yếu đuối của con người.


Thứ hai Sự tiến hóa của trí tuệ con người sẽ được nhân diện, phát triển nhằm vào mục đích hoàn thiện, cơ cấu cấu trúc cực kỳ đa đạng phức tạp, và tạo ra sự bền vững cho việc tồn tại sinh linh vũ trụ vô tận.


Thứ ba xu hướng nghệ thuật bằng sự biểu lộ tình cảm, các ham muốn, xúc động và thói phiêu lưu của loài người. Rồi đây sẽ tạo ra những đột biến có lợi, cho quá trình hoàn thiện nhất của tổng hài hòa vũ trụ vô tận.


     Liệu chúng ta có xứng đáng và thể hiện được sự tin cậy của sinh linh vũ trụ vô tận hay không? Hình như, ở trong sâu thẳm của chúng ta, chưa nói lên điều vì quyền lợi chung của nhân loại ( loài người). Con người cơ bản là vì mình. Cái tổ của mình đối với người kia cũng chẳng quan trọng bằng những đứa con sinh ra, vì chúng là một phần của mình. Bố mẹ của mình, con cháu của mình, thì khi thống nhất vào gia phả phía bên nam, sẽ mang mầm mống của mình.( phía nữ  ít hơn hẳn) . Như vậy, có thể là do các nhiễm sắc thể lưu truyền qua các đời vẫn không chịu biến đổi nhiều. Vậy là , quá trình định hướng có lợi cho loài người là kém, như vậy, quá trình định hướng cho sinh linh vũ trụ vô tận ( trong đó có cả chúng ta) cũng chưa được khẳng định bao nhiêu?


 


               5.3.2 Chúng ta phải làm gì? .


 


1. Hình thành dung dịch trường sinh và duy trì nó.


2. Định hướng tiếp nhận năng lượng sinh hóa từ VTVT. Tiến tới 100% và khắc phục các hậu quả do tiết giảm ăn uống và quan hệ tình dục.


3. Định hướng mình là người bảo vệ công lý, những cái đúng, chữa bệnh cho mọi người, và truyền lại cho các thế hệ sau bản năng thần diệu của mình.


                   Hình thành dung dịch trường sinh. ( đọc cuốn sách này)


                Chúng ta phân tích khả năng duy trì dung dịch trường sinh :Luyện cho cơ thể đạt được sự hồi phục nhanh của tế bào trẻ,sau khi làm việc. lao động, thể thao (đọc cuốn sách này).


                Năng lượng khi tích lũy vào cơ thể naèm ở đâu? Năng lượng tích lũy vào cơ thể bao gồm các chất béo, lipit, Nito, Caxi, Oxy, trong đó muối là dung môi, nước là dung dịch dịch chuyển năng lượng. Các chất khí thải chung của con người là khí Cacbonit ( C02 ), muối vaø caùc chất khí khác cùng các chất mà cơ thể không cần nữa. Năng lượng của con người tiềm ẩn nằm trong các hạch thần kinh, các tế bào cơ bắp, tế bào gan, tụy, tim, tủy sống, thận, dạ dày. Tuy nhiên, còn có một con đường dịch chuyển năng lượng quan trọng là bức xạ sinh hóa của VTVT mà chúng ta tiếp cận được.


                Khi chúng ta đọc thông hiểu cuốn”Cánh cửa Trường sinh”, là chúng ta biết phép dịch chuyển khí hải trong cơ thể, theo định hướng chuyển hóa lại năng lượng sẵn có, đưa  năng lượng đạt đến một vòng quay tổng hợp, sao cho giống như đó là một luồng điện sinh tổng hài hòa, theo hình thức của bản thân ta. Sau khi sự luyện tập trí tuệ sức tre, khỏe lại, cho cơ thể đạt hiệu quả tuyệt vời, thì dòng khí hải điện sinh sẽ đưa tiếp trí, lựa của ta thăng hoa cao độ. Khi sự thăng hoa tột đỉnh, thì sẽ dẫn tới một cơ thể tích lũy dung dịch trường sinh. Năng lượng tích lũy nằm trong sóng nào? Tủy sống, trong máu, phổi, gan, tụy, thận, ruột, cơ bắp, hệ thần kinh( hạch trên đầu), mỡ dưới da, trong đó:


                           


   1/ Thần kinh, não, tủy sống và các dây chiếm                      30% năng lượng


    2/Hệ cơ, mỡ dưới da, gân                                                      30% năng lượng


    3/Máu                                                                                     14%


    4/Gan                                                                                      5%


    5/Thận                                                                                     5%


     6/Phổi                                                                                     4%


     7/Tụy                                                                                      4%


      8/Ruột                                                                                    4%


       9/Xương                                                                                4%       


 


Khi một tổ hợp sinh vật sống như chúng ta, phát động một chu trình khí hải tổng thể, thì năng lượng ở 9 khu vực quang trọng nhất của cơ thể, sẽ tiết ra hòa khí và hòa lẫn vào nhau, điều đó rõ ràng là làm theo một định hướng chu trình thăng dáng của dương kinh ( hoặc âm kinh), tạo ra bức xạ, nguồn đó là các hạt joăng, có tính năng như là Nitron+ mang theo thông tin định hướng, phát vào không gian. Chúnh ta đều biết rằng một hạt điện tích như là notron+. Khi phát ra từ nguồn vật chất vô cơ, sẽ có chuyển động hỗn loạn. Nếu có một vật cản,. thì nó sẽ vẽ ra một dây hoặc một màng, hoặc một hình khép kín, nếu đó là một chùm điện tích. Tuy nhiên, khi một vật thể sống phát ra  các chùm năng lượng, ví dụ Notron+ định hướng thì hoạt cảnh sẽ khác xa. Bức xạ của chùm hạt joăng sinh hóa, sẽ có biên độ cực nhỏ, nói cách khác. Chúng thẳng tiến trong không gian. Bước sóng của chúng có tính chất hạt.


                Trong học thuyết siêu dây, các “hạt bạn” cực nặng ( loài người chưa nắm bắt được) có thể vẽ một dây to bằng hệ ngân hà. Tuy nhiên trong vũ trụ vô tận, các hạt bạn cực nặng, đã được mã sinh hóa, nên chúng không có đối thủ, chúng không có biên độ sóng, nên không vẽ ra các dây( hoặc nói cách khác, các dây đã cọ vào biên độ nhỏ nhất).


Bởi vậy, các hạt bạn siêu nặng có tính sinh hóa, được định hướng làm cầu nối giữa các điểm 0, đó là hệ thần kinh không gian phản ảnh từ điểm 0 này tới điểm 0 kế tiếp, mang toàn bộ thông tin về sự biến thiên xác xuất ở từng khu vực, mà nó đã và đang xuyên qua, trong một thời gian vô cùng ngắn.


                Quay trở về với thực tại là như thế nào? Và phải làm gì? Để xứng đáng làm người định hướng tạo ra một tổng thể tâm tính loài người như một? Thực tế chưa chứng minh rằng loài người đã hiểu được phép trường sinh. Những tu sĩ AÁn Độ cũng đã vận công, nhịn ăn, tiết dục, sống cuộc đời xa rời mọi sinh hoạt cao cấp của xã hội, họ cũng không sống lâu hơn. Các tu sĩ ở Trung Hoa, trên cao nguyên Tây Tạng cũng vận công, thiền công , nhịn ăn, cuối cùng thì họ cũng sống 100 tuổi ( có lẽ vì ở trên cao nguyên, nguồn nước khoáng tốt, không khí trong lành). Ngay cả nhiều đạo sĩ  Trung Hoa lên núi luyện công phu, nhịn ăn hoặc ăn trái cây, rau, sống ẩn dật tiết dục, xa rời phồn hoa đô thị cũng chỉ đạt khoảng 100 tuổi. Tuy nhiên, trong nhân dân, ở những vùng trung du, đồi núi có nhiều cây thuốc mọc lên, có mạch nước khoáng tuyệt diệu, cuộc sống lao động đều đặn, giúp cho người ta sống đến 110-> 120 tuổi.


                            Vậy thì, loài người nhìn chung chưa hề đạt đến sống lâu;  có chăng , bắt đầu từ “cánh cửa trường sinh” . Chúng ta đã có hy vọng và đã có thực nghiệm, bước đầu những trải nghiệm đúng đắn của học thuật. Sự soi sáng của học thuật trường sinh, làm cho con người trở nên uyên thâm về tâm linh học, về đạo học, về các khả năng sinh hóa ảnh hưởng đến tâm linh, thông thái các vấn đề vũ trụ học, các vấn đề phong thủy, ảnh hưởng đến tâm thần quá khứ hiện tại và tương lai. Thông thạo ngôn ngữ tâm linh ( ngôn ngữ biểu hiện bằng cảm nhận khó nói ra- ở người), không nói ra được ( ở loài vật, cây cối, phong cảnh …). Như thế thì Khí công tâm trí niện đạo pháp, đã có gì hơn các phép luyện thân của những cha ông cổ xưa? Đó là định hướng bằng tâm linh! Không phải cứ nói ra, viết ra là giải thích được. Chúng ta lại một lần nữa, mổ xẻ ngôn ngữ tâm linh. Đó là ngôn ngữ của muôn loài động thực vật, và ngay cả vật chất vô cơ như: núi đá, sông ,suối,  khung cảnh trời biển, các giấc mơ, và các cách tưởng tượng, hoặc giả là tiếp xúc siêu viết bằng tâm linh. Hơi thở tâm linh, lời nói tâm linh, ý nghĩ tâm linh, luyện công tâm linh. Trải qua caùc trải nghiệm tâm linh như vậy, thì ta mới đúc  kết để nói ra bằng lời viết, ra bằng văn mô tả các hiệu quả tâm linh như thế. Tâm linh là một sự thực nghiệm thực tế  đúng không màu mè, sáo rỗng, đó là vật chất và tâm thần trong một hợp thể thống nhất là chính chúng ta.Chính từ tâm tưởng đó, chúng ta định hướng cho cả quá trình học tập và thực nghiệm. Phép định hướng đã vốn thẳng bản năng gốc của vật chất, và tính sinh hóa đó được áp dụng vào dòng hào quang, bức xạ thân thể ta, dòng điện sinh của ta trôi theo một  chiều nhất định, vượt qua các chuyển động hỗn độn, vốn là của vật chất vô sinh. Chúng ta phải luông nhớ rằng chính những ngôn ngữ tâm linh, dẫn dắt suy nghĩ sáng tạo và thực nghiệm nội suy và  soi sáng, và rồi dẫn đến định hướng bắt buộc. Đó chính là tính sinh hóa nghiễm nhiên đã tạo ra dung dịch trường sinh, trong trạng thái tính sinh hóa định tính, cho các bức xạ thẳng., trong đó các joăng phát đi với năng lượng yếu, nhưng vận tốc vô tận.


Trong khi bản thân các hạt bức xạ đó là rất mạnh. Các bức xạ này bay xuyên các không gian, hành ting trong đó và nối liền các Noron 0 với nhau một cách ngoạn mục.


Bởi vậy, chúng ta hãy cố gắng xác định chúng là gì? Như thế nào? Chỉ cần xác định được thôi là đã tiên đoán được khả năng bẫy chúng bằng vật liệu gì? Điều dễ làm nhất ngày hôm nay là bẫy được bức xạ sinh hóa của con người, phát xạ mạnh ra phía xa, trong những cuộc giao hòa, và tiếp nhận năng lượng ngược lại từ bầu trời.


                Khí công tâm trí niệm pháp, còn có gì khác với tổ tiên đã thực nghiệm? Ngoài khả năng suy tưởng và đọc tâm linh, dẫn đến định hướng duy nhất, chúng ta còn có một sản phẩm nữa là tình yêu thương  không bờ bến của con người, cụ thể là sự hy sinh cứu nạn dưới ánh sáng thực sự của tình yêu! Đó là sự ban phát năng lượng tự nguyện và hy sinh cho đối tác thân yêu. Sự ban phát đo, cũng giống như chúng ta đã nhận  được sự ban phát ngược lại, của bức xạ sinh hóa VTVT. Nếu không có ban phát đó, thì chúng ta làm sao biết được là sẽ được nhận năng lượng lấp chỗ trống trong ta với khối lượng là bao nhiêu? Và tại sao lại lấp được chỗ trống?


                Khi một nhà khí công cổ điển luyện công, họ vận công  và cũng tuân thủ luật lệ về thể thao, cây thuốc chữa các bệnh của dòng họ, tiết dục bằng cách sống xa loài người trần thế như là ra đảo hoang, lên núi cao. Như vậy, cơ hội chữa bệnh của họ bằng trực tiếp truyền năng lượng qua da là hiếm hoi.Nếu bệnh nhân không mô tả những bệnh của mình theo chuẩn doán từ trước, và không mô tả dòng năng lượng của ta đã đi đến đâu, và làm gì trong cơ thể bệnh của họ, thì ta cũng gần như không biết chính ngay khả năng của mình. Nếu ta chữa bệnh hẹp van tim, và tĩnh mạch cổ gây ra thiếu máu lâu ngày, mà ta không đọc sách về việc chữa chạy đó, thì lấy đâu ra “niệm”. Niệm là phép dẫn năng lượng làm nóng van tim và gây một dòng chảy chậm mà mạnh mẽ lên đầu( qua chỗ mạch hẹp), nó sẽ nong mạch ra một cách từ từ. Nhưng nếu bệnh nhân một mặt lại bị bệnh bạch cầu, thiếu hồng cầu, thì phải tác động từ xương cùng một dòng năng lượng kích thích dâng lên, hãy lấy năng lượng từ thận hòa vào tủy sống, và dâng lên trong tủy sống, lên đến não bộ, ra phía trước mặt, hạ xuống đó, chính là “tiểu châu thiên dương kinh” . Như vậy, niệm của ta đã trùng với vòng tuần hoàn năng lượng khí hải “Tiểu châu thiên dương kinh” – đó là sự hài hòa….Để đạt được sự hài hòa tương tự ở nhiều bệnh khác nhau, chúng ta đều phải đọc sách y khoa xem xét mầm bệnh, quá trình gây tác hại và cách chữa của chúng; sau đó ta vận hành và thực nghiệm. Đó là quá trình tích lũy thông tin.. như là con người , đâu thể tự nhiên nguû dậy, sáng ra thành thần tiên, mà trước hết là thành nhân, thành kiến thức, thành học thức, xuyên qua trải nghiệm về sự hy sinh, đọc qua trải nghiệm vận công bằng tâm linh, và nổ lực định hướng của mình, vào mục tiêu trường sinh. Vậy mà sau đó đã biết ta có thành tiên được không?