2/1 Lý luận về ngôn ngữ.
Thực ra, ngôn ngữ giải thích bằng lời văn, cũng đã truyền đạt được 99% ý đồ giữa người với người. Nếu ý đồ đó là đúng sự thật. Nếu người ta ngụ ý, hoặc là giả vờ theo một ý nào đó, và che dấu một nội tâm, để sắp đặt những mục tiên khác, hoặc giả ngôn ngữ, không biểu cảm hết ý đồ muốn giải thích, thiếu những từ ngữ mới, mô tả các quá trình nào đó mà con người không giải thích được- Giống như tôi nói: :”Không gian vũ trụ của Quát là các sợi vô hình và tâm linh vũ trụ”, thực ra là, chưa được giải thích cụ thể vì loài người chưa chứng minh được, các sợi trong suốt không thời gian đó và cũng không chứng minh được về linh hồn vũ trụ.
Chúng ta chưa hiểu hoàn toàn bản chất của hào quang của con người, theo phương pháp nào để đo, đếm, nhìn thấy nó. Bởi vậy trong lý thuyết của tôi là sự tiên đoán, kéo theo nó là tràn đầy các câu hỏi :vì sao?, do đâu?, chúng minh thế nào?, điều đó đúng hay sai? Trong vật lý cơ học cổ điển: ta biết ba đại lượng, thì suy ra đại lượng thứ tư. Trong toán học cở điển, thì ta chỉ biết tới 4 đại lượng, để suy ra đại lượng thứ 5. Trong hóa học, ta biết hơn 200 nguyên tố, và có thể suy ra vài nguyên tố nữa. Trong vật lý lượng tử- hạ nguyên tử ta cũng có thể đi tìm một vài loại “Quát”, một số các hạt siêu nhỏ cả về không gian lẫn thời gian… Chúng ta có thể dùng máy gia tốc cực lớn để đi tìm những vật thể ẩn siêu nhỏ… Đấy là với nguồn điện lớn, nhiệt độ lớn, gia tốc lớn và bắn phá mạnh…
Chúng ta hoàn toàn không biết về mối liên kết trong các hào quang của vật thể, của cây cối, của động vật, của con người. Chúng ta hoàn toàn không thấy, không đo được “ Trường Quát” trong tổng thể vũ trụ. Chúng ta hoàn toàn không hiểu được là trong không gian cuộn lại gần bằng không( không gian laliliagan) chứa đựng những gì?. Chúng ta phân tích một bước sóng linh hồn của não người phát ra dưới dạng hạtα dài hàng vạn dặm. Có thể nối với một cá thể khác cùng ADN hoặc gần nhau, thân thiết nhau( ngàn năng lượng sóng)( bước sóng cho một tập thông tin toàn bộ ảnh của người đối tác trong một không gian), đến ngay người nhận trong không thời gian. Như vậy cái máy quan trọng nhất là cơ thể đang sống của ta đã phát sóng, đã chuyển đi một tập thông tin lớn trong thời gian bằng không, ta gọi hạt đó là (Joăng). Hạt là một bước sóng vô tận mang theo sự sống thông tin và hạt đi đến vị trí từ A qua B với thời gian bằng không. Vậy hạt đi nhỏ vô cùng tận, nhưng lại chứa một sự sống về thông tin- Chính chúng ta sẽ thừa nhận hạt đó ( mặc dù không chứng minh được)- Như vậy, không có lẽ còn có vận tốc nhanh hơn hạt notron ( ánh sáng)?Trong điều kiện không hề có phản ứng hạt nhân?.
Tôi sẽ mô tả sự thấu thị theo ngôn ngữ con người. Trước tiên, ta sẽ phát ra một hào quang định hướng, kiểm tra tâm lý đối tác. Trong hào quang định hướng chứa đựng chùn tia (Joăng ) không thời gian. Ta định hướng cho chùn tia đó, một niệm pháp rằng:”hãy cởi mở tâm thần ta, để thấu hiểu tâm thần họ”tiếp theo, cần phải khơi một câu hỏi gợi chuyện gần gũi, với định hướng mà ta cảm giác cần được ví dụ: khách hàng định thăm dò, để có thể ký một hợp đồng xây nhà, thì ta có thể bắt đầu như: vị trí địa lý ngôi nhà? Sự chịu tải trọng nền đất? dự kiến giá trị khai toán! Dự kiến thời hạn hoàn thành!… khi khách hàng đáp lời, là lúc ta nằm trong suy nghĩ của khách hàng, vì hệ định hướng của Trường Năng lượng của ta, đã hòa quyện xuyên qua cơ thể người đối tác. Sự thấu thị trong tình yêu thương, giữa con người với con người, người với vật nuôi, là rất mạnh mẽ; khi đứng cạnh nhau, thì tình cảm yêu thương dâng trào, làm cho cả hai xao xuyến, không cần đến lời mô tả. Nếu hai người ở cách xa nhau, mà vẫn cảm nhận được nhau, gọi là thấu tâm linh. Nếu tiên đoán được một việc sắp xảy ra, gọi là cận tâm linh. Người đời gọi nôm na là” nhà tiên tri”, gần gũi hơn thì gọi là thầy bói. Các thầy bói thông thường đọc được ý nghĩ của đối tác, cho nên có thể mô tả quá khứ, và hiện tại của người đó, còn tương lai là một chuyện khác: họ có thể dùng phép nội suy, bắc cầu liên tục giữa các suy diễn, để mô tả tương lai, hoặc giả theo sách tướng số, sao chiếu mệnh mà đoán theo.
2/2 Tâm linh -xuất hồn.
Hiện tượng cận tâm linh, là một phép kỳ dị của nội suy, và phát sóng tập trung đến mức gọi là xuất hồn.
Xuất hồn, là một trạng thái cực kỳ nguy hiểm, vì chúng ta vẫn biết cơ thể ta suy nghĩ tự vận hành là nhờ có linh hồn. Linh hồn, chiếm tỷ trọng ở người trưởng thành là 60%-70%, so với con người đang sống. Nếu một người bị trúng đạn ngã xuống, nằm gục. Thực ra họ chưa chết, chẳng qua cơ thể bất tỉnh vì không giải đáp được, là làm cách nào sống tiếp. Linh hồn trong con người đó vẫn suy tư, nhưng bất lực, nhìn ngắm cơ thể gục ngã, mất máu, tổn thương cơ thể nặng nề. Trung bình,nếu viên đạn trúng chỗ hiểm như cột sống, sọ người, thì họ thực sự chết sau 1 giờ. Nếu trúng ngực, bụng, gây chết người thì cũng phải 2-3 giờ sau , linh hồn mới rời thể xác.
Khi ta muốn làm một việc với một người nào đó, ở cách rất xa ta, và công việc đó nhất định phải làm- ví dụ chữa một cơn bệnh, không cho người kia thực hiện ý đồ của họ, đi kêu gọi tình yêu đến với ta…. Nhà khí công Trường Sinh có thể xuất hồn, để làm một việc nào đó ( như đã mô tả) dĩ nhiên không thể xuất 100% hồn, mà là ít hơn ( khoảng 70%-80% linh hồn )- còn 20%-30% linh hồn là để lại nơi cơ thể của mình-Trạng thái xuất hồn là: một sự hưng phấn định hướng toàn diện, vào ý thức và người cần tiếp cận. Tất cả các giác quan: mắt, tai, mũi, da, lưỡi gần đạt đến 10% thậm chí 2%,tất cả tập trung vào giác qua tâm linh. Trạng thái xuất hồn, làm cho ta trở thành một cái xác đờ đẫn ,rất dễ bị hại vì không thể đối phó với bất kỳ một tác động thiên nhiên hay con người nào. Chúng ta, bất đắc dĩ lắm mới dùng phương pháp xuất hồn. Lúc đó, bên cạnh ta phải có một người bảo vệ ta, hoặc giả ta ngồi một mình trong phòng đóng lại ( một tiếng động lớn, cũng làm ra một sự cố rất nghiêm trọng). Người phương xa mà ta tác động tới, phải có mối quan hệ tâm linh, cùng sợi không gian với ta. Sự tác động trong trường tâm linh, được giao động trong trường sợi vũ trụ, và sự thông tin được tiếp quản, sẽ ngầm tác động lên người đối tác của ta, làm họ đột nhiên suy nghĩ lại, và hơn nữa, phương tiện di chuyển của họ bị một tác động vô hình, trở nên không di chuyển nữa, xe ô tô, hoặc xe máy sẽ hỏng hóc, mà không tìm ra nguyên nhân. Chí khi người đối tác tự thay đổi tư duy, không thực hiện ý đồ đó nữa, thì phương tiện giao thông của họ mới hoạt động trở lại.
Linh hồn có thể ra đi, thì cũng có thể quay trở về. Mạch nối của linh hồn với cơ thể người, là nhiễm sắc thể trong con người đó. Nếu nhiễm sắc thể còn, thì linh hồn còn. Khi một người trúng đạn ngã xuống, với một vết thương quá nặng, thì họ sẽ thoạt tiên chết lâm sàng. Trong thời gian chưa chết hẳn, thì cơ thể ta cùng với linh hồn, sẽ tìm cách soay sở, để tự cứu mạng cho mình. Thực tế là không còn cách nào nữa, thì linh hồn sẽ tuyệt vọng, và rời khỏi cơ thể, chuẩn bị cho vi khuẩn phát triển tột bậc, và ăn hết cơ thể đã không tự bảo vệ được nữa.
Tuy nhiên, linh hồn còn tồn tại rất lâu trong không gian nào đó, hình sợi và núp vào những sợi của không gian vũ trụ, hoặc các không gian Alibajem nào đó không thời gian. Một ngày nào đó, khi mà khoa học phát triển, chúng ta có thể nuôi một cơ thể đã xuất hồn, và cố tái tạo lại những tổn thương nặng nề ban đầu, trở về vị trí cũ. Quan trọng nhất là quản lý bộ não, và tủy sống. Một khi kích hoạt trở lại, thì chúng ta cũng có thể gọi hồn của người chết trở về.Thực chất, ADN của người chết vẫn tồn tại rât rất lâu, nếu giữ được xác chết nguyên vẹn, thì ADN của họ, vẫn là sợi dây nối với linh hồn của họ. Xác chết có thể giữ được hoàn toàn nếu quan tài bằng vàng ròng ,và chôn ở một vị trí nào đó tuyệt đối không gí có thể xâm phạm, thì ADN có thể tồn tại hàng triệu năm, và có thể là 500 triệu năm( chẳng hạn).
Trong một dòng tộc, những người đặc biệt giỏi, khi chết đi thì nên bảo quản thân xác toàn vẹn để lưu giữ ADN quý giá nhất của dòng tộc. Chính phần hồn của các ADN quí giá đó, sẽ thâm nhập vào con cháu của mình, và trong gia tộc đó, một lúc nào đó, người xưa sẽ quay về. Như vậy linh hồn có thể ra đi, và quay trở về chính cơ thể của mình. Linh hồn ra đi, và quay trở về vào một cơ thể khác thuộc dòng tộc( ADN dòng tộc) ta gọi là đầu thai. Từ các lý luận đó, chúng ta cần kết luận rằng Trong một cơ thể người, thì nhóm ADN đặc trưng là của dòng tộc ( dòng nam). Bất cứ những bộ phận nào trong cơ thể chúng ta, cũng có thể thay thế được, nhưng chính cơ thể ADN dòng tộc, sẽ loại bỏ các phần thay thế đó. Sau này, khi cơ thể sẽ suy tàn, hư hỏng bộ phận, thì cơ thể sẽ phải nằm nghỉ, trong một điều kiện an toàn, toàn bộ tế bào, và bắt đầu nuôi cấy các mô hình khiếm khuyết, gây dựng lên từ tế bào gốc của mình. Hoặc giả, ở một mức độ khoa học cực kỳ cao cấp, chúng ta có thể chế tạo ra các cơ quan thay thế, và nhập dữ liệu ADN của dòng tộc vào đó, và dùng những cơ quan đó, thay vào cơ thể suy thoái và hiệu đính nó hoạt động tốt lên.
Con người cổ xưa, từ 500 triệu năm trước chưa biết nói, nhưng bắt đầu củng cố sâu sắc trí tuệ tâm linh. Lúc bấy giờ, cả Thế giới là đồng ngôn ngữ tâm linh. Khi con người bắt đầu phát sinh ra chữ viết giống như chữ ký hiệu, thì cũng là phát sinh ra tiếng nói khác nhau, để biểu lộ tư duy và hành động của mình, thì cách biểu lộ chữ viết, và tiếng nói ám chỉ một việc, một hành động, sẽ được qui định hoàn toàn khác nhau. Âm sắc nói và chữ viết là sự sáng tạo độc lập của từng dòng người, ở các khu vực khác nhau trên Thế Giới. trải qua quá trình 500 triệu năm, tiếng nói và chữ viết được phân hóa, giống như ngày nay của chúng ta. Hiện tại, một số ngôn ngữ chính, đều đã đạt đến phức tạp hóa. Chúng ta cần chọn tối đa ba ngôn ngữ chuẩn, và cải tiến giản dị ngôn ngữ lại; Ví dụ chữ châu Á có tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật, Triền tiên, Ấn Độ, Ả Rập thống nhất lại là chữ Trung Quốc cải tiến- Chữ La Tinh thống nhất: tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Nga, Ba Lan… Thứ ba là những nước không thống nhất được.
Loài người cần qui định lại từ điển, ngữ pháp, câu văn gọn lại, bằng 1/3 hiện nay, và thêm vào ngôn ngữ tâm linh có thể là tiếng La Tinh làm chủ đạo.Ngôn ngữ Tâm Linh chiếm 2/3, trong các ngôn ngữ chính, và không được thay đổi theo thời gian. Cuối cùng, sau 100 ngàn năm, chúng ta sẽ thống nhất được ngôn ngữ Thế Giới; các nhà kỹ thuật, buôn bán, các nghệ sĩ, sẽ là những người đi tiên phong trong công cuộc thống nhất ngôn ngữ này. Tuy nhiên, trước tiên trong vòng 1000 năm, loài người cần phải tự đơn giản ngôn ngữ của mình, xuống còn bằng 1/3 hiện tại, và xen vào những phần thiếu là ngôn ngữ tâm linh. Quá trình sáng tạo ngôn ngữ tâm linh, là một cuộc thi đua toàn Thế Giới, như là một kỷ lục Ghinet, và toàn Thế giới sẽ bắt buộc công nhận, lắp đặt ngôn ngữ đó vào ngôn ngữ riêng của mình ( các bộ phận/ các nước khác nhau)..