Quá trình thải âm, thải dương, thu âm, thu dương quá trình trung chuyển năng lượng vũ trụ xuyên qua thân thể ta theo nhiều chiều là quá trình hội nhập cơ thể với vũ trụ, quần áo ta mặc phải nhẹ nhàng, thấm được mồ hôi không cần thắt lưng, khi ngồi nghỉ nên tháo giày ra đặt chân xuống đất, khi ta vào một khu vườn đẹp thì thưởng thức trò chuyện với nó bằng cách tiếp nhận năng lượng yêu thương từ vườn cây tỏa ra. Khi đi qua một bãi khói bụi thì cơ thể đóng cửa lại, không thu hút, nhịn thở, chuyển cơ thể vào trạng thái đóng cửa.
Trạng thái đóng cửa: khi cơ thể không thích nghi với không gian bên ngoài nếu là quãng đường nhiều bụi thì ta có thể nhịn thở một thời gian và đưa cơ thể vào trạng thái tĩnh của luyện công không vận hành cơ thể, động tác đó như sau: hít một hơi dài , từ từ thở ra khi đến đám bụi nhịn thở để đi thêm một quãng đường nữa qua đám bụi. Trạng thái này cũng như một vi khuẩn không gian chúng co lại nhỏ bé và nhẹ nhàng, mảnh như một hạt bụi gần như vô hình và không có hoạt động sống chúng lơ lửng trong môi trường khắc nghiệt nhiều năm liền cho đến lúc không gian bên ngoài thích nghi thì chúng sống lại. Chính chúng ta cũng cần học hỏi phương pháp đó. Cơ thể vận khí đến gần với thể Plasma sẽ tạo ra một thực thể cực kỳ thống nhất để mở ra hoặc thu vào, để liên lạc với vũ trụ bởi vì một cơ thể bình thường không bao giờ thích nghi với vũ trụ được.
Vũ trụ phần lớn là vô tình cho nên những động vật có vú, ví như con người rất khó sống trong đó. Càng muốn thích nghi càng phải hòa nhập phải đưa được ta thành một cái cây, hòn đá, cái cây sống ngàn năm hòn đá sống triệu năm. Vậy thì bản chất của ta, linh hồn của ta phải được tiệm cận với trường tồn, phải im lặng như một cây cổ thụ, phải ẩn mình như một hòn đá. Như vậy là ta phải hòa nhập thật sự với vũ trụ và cần một sự tiến hóa trong sự xung đối giữa trí thông minh và yêu cầu cuộc sống vì tương lai. Con người lúc đó chỉ là một đám sương mù, hình hài người chẳng qua là cố tình nhớ lại nguồn gốc tươi đẹp của mình. Phương pháp hòa nhập vũ trụ phải tập trong vòng từ 1 – 3 năm. Đó là thời gian tuyệt đẹp để cơ thể ta tiếp đất tiếp trời lấy năng lượng không gian tẩy năng lượng xấu của cơ thể bù đắp liên tục, liên tục để tạo ra dòng năng lượng tái sinh vĩnh cửu cho cơ thể. Từ đó chúng ta có thể chữa bệnh cho bệnh nhân mà không sợ bị ảnh hưởng bệnh. Hòa nhập vũ trụ cũng là một biện pháp huy động toàn năng nghĩa là trong xả âm cùng Đại Châu Thiên (cửu âm), xả dương cùng Tiểu Châu Thiên (cửu dương), hoạt động năng lượng tiến hóa nhất gọi là huy động toàn năng.
Trong khi ta dùng cửu dương tức Tiểu Châu Thiên trị bệnh (bệnh nhân bị hàn âm nguy hiểm) thì ta đồng thời nạp năng lượng vũ trụ vào đầu mình và cho năng lượng đó vận theo Tiểu Châu Thiên. Lúc đó giữa ta và người bệnh có một đối lưu khí, khí khỏe và thông minh sẽ đẩy vào bệnh nhân và khí bệnh sẽ chảy ngược vào ta và hòa nhập vào Tiểu Châu Thiên (cửu dương kinh). Như vậy, hiện tượng đó gọi là huy động toàn năng.
Khi một cơ thể người biết huy động toàn năng thì bất cứ khi nào vận Tiểu Châu Thiên – Đại Châu Thiên hoặc xả âm, xả dương, thì cơ thể đó bắt đầu sinh ra nhịp điệu năng lượng toàn năng. Càng vận hành nhiều càng rơi vào hệ vô thức thể thực vật nghĩa là trong cơ thể sống hàng ngày luôn luôn là huy động toàn năng.
Trong huy động toàn năng trí tuệ sẽ được tiến hóa vô song. Sự tiến lên tiệm cận thể Plasma đưa cơ thể ta thành một bào tử rất thống nhất, nhỏ bé. Quá trình luyện tập lâu dài sẽ đưa ta ngược lại thời gian. Anh có thể mãi mãi dừng lại ở lứa tuổi đó nhưng linh hồn anh sức mạnh anh càng trẻ lại theo một thời gian nhỏ bé lại như thời còn là trẻ con và nhỏ lại nữa như là một cặp tế bào bố mẹ thời kỳ sơ khai của một bào thai.
Trong quá trình huy động toàn năng ta phải luôn hồi tưởng về quá khứ tuổi thơ, tách dĩ vãng khỏi ý nghĩ, sự luyện tập lâu dài trong vô tư (vô vị) tạo ra cho ta một bản ngã độc lập không phụ thuộc vào không gian và thời gian. Ban đầu ta có thể xem giờ khi vận công dần dần ta quên việc xem giờ cũng như trong các công việc làm hàng ngày ta quên xem giờ. Điều đó ảnh hưởng tốt đến quá trình lãng quên những sự việc không cần thiết cho tương lai của chính bản thân chúng ta, không cho những dĩ vãng xấu quay lại dày vò tư tưởng và lương tâm con người.
Tâm trạng vô vi là một định hướng hoàn hảo của con người trong xã hội hiện đại ngày nay. Những điều gì không cần thiết thì loại bỏ qua một bên, chỉ nên tập trung vào những việc cần thiết mà thôi. Trong lúc luyện công thì ta hoàn toàn vắng lặng, tuy nhiên vận công là một quá trình định hướng năng lượng chảy trong cơ thể, quá trình tiêu hao năng lượng, quá trình thu năng lượng từ bên ngoài vào, quá trình ngôn ngữ tuyệt đối giúp cho tất cả các quá trình năng lượng có định hướng, quá trình ngôn ngữ có tính chất như những câu hỏi hoặc câu trả lời ám thị cho chúng ta hoặc ám thị cho bệnh nhân để chính ta hoặc bệnh nhân suy nghĩ về vị trí chữa bệnh và phương thức chữa bệnh đó.
Một bác sỹ giỏi về bệnh tim sẽ giỏi hơn gấp bội nếu thông thạo Khí Công Tâm Trí Niệm Pháp, công cuộc chữa bệnh tốt nhất là nên dùng ít thuốc, tuy nhiên dùng khí công chữa bệnh tim của bác sỹ tim thì sẽ có kết quả tốt bởi vì vị bác sỹ một mặt truyền khí tốt đếnkhu vực cần chữa bệnh nhận khi bệnh để đồng hóa lại thành tốt và đọc các phương pháp chữa bệnh ngắn gọn giống như thủ thuật ám thị làm cho bệnh nhân tin tưởng và mở rộng buông thả cảm giác chống đối của cơ thể từ đó phép màu sẽ tới mau thậm chí được như ý muốn của bác sỹ lẫn bệnh nhân.
Trong không gian vô vi vô tận chứa đựng tất cả những gì con người đã biết, tưởng tượng ra và chưa tưởng tượng ra.
Nhà khí công siêu đẳng là người có độ trong sáng nhất của linh cảm, họ có ít các suy tư gọi là xấu xa, từ họ toát ra tính biện minh của logic sống hòa nhập dễ dàng với các đối tác tiếp xúc. Trường năng lượng thông tin hòa quyện với đối tác bắt tay nhau, thấu hiểu nhau và hòa đồng lại như một trường kép thống nhất. Vì vậy, nhà khí công đọc được tư duy của đối tác trong các công việc chữa bệnh, làm quen giúp đỡ lẫn nhau, yêu thương nhau hoặc cùng nhau ký kết các hợp đồng kinh tế mà hai bên cùng có lợi.
Thông thường những người luyện được tâm đạo sâu lắng thì cuộc sống ung dung, tâm hồn vô vi và vì vậy khi gặp rắc rối trong cuộc sống hằng ngày người đó sẽ vượt qua bằng những giải pháp tình thế thông minh nhanh gọn, nhiều người như vậy sẽ tạo ra một xã hội uyển chuyển thấu hiểu nhưng rất đúng đắn trừng phạt những cá nhân giám chống lại những điều tốt đẹp.
Vô vi là một không gian không tưởng, không biết về thể tích và thời gian, không có khái niệm cực nhỏ và cực lớn. Nằm trong vô vi là vũ trụ nằm trong vũ trụ là vô vi. Vô vi là một không gian được định hướng. Trước khi chúng ta định làm gì đó thì vô vi đã có rồi. Tuy nhiên, sau khi chúng ta luyện Khí Công Tâm Trí Niệm Pháp thì chúng ta mới cảm nhận được sự hiện diện của vô vi, nhưng vô vi không là trạng thái không tuyệt đối vì có vô vi thì mới có định hướng vũ trụ, mới có định hướng tổng thể bức tranh không gian vũ trụ và các mối liên quan giữa hàng trăm nguyên tố và các quy luật của nó. Các hạt, các bức xạ và các vật thể vũ trụ sinh tồn và huỷ diệt. Tuy nhiên, vô vi là không thời gian và là vĩnh cửu. Vô vi vì vậy là đối trọng của ta trong sự sáng tạo vô biên ở cuộc sống và làm việc của chúng ta, nếu ta nằm trong vô vi thì ta trường tồn mãi mãi.
1.1. Kỹ năng hòa nhập vũ trụ:( thu năng lượng vũ trụ )
Vừa qua ta mới nói về quán tưởng hòa nhập vũ trụ, về kỹ năng ta vận dụng quá trình Tiểu Châu Thiên (dương kinh) hoặc Đại Châu Thiên (âm kinh) và hòa quyện âm dương. Khi quán tưởng khí đi nghịch chiều tức là ta bắt đầu chìm vào vô vi và vận khí. Khi ta muốn thu năng lượng từ vũ trụ thêm vào người ta nhắm mắt hờ quán tưởng dòng khí có thể từ ngoài rộng lớn xoáy tròn theo chiều kim đồng hồ tụ lại thành một điểm trắng hoặc đen thấm qua đầu ta qua đỉnh đầu, qua trán, qua rốn hoặc qua lòng bàn tay tuỳ ta quán tưởng lấy. Nếu ta thu năng lượng vào thì ta cũng phát được năng lượng ra, có thể vừa thu năng lượng vào ta sẽ dùng mắt phát ra nhằm vào một đối tượng nào đó đồng thời ám thị đối phương bằng những định nghĩa kêu gọi hợp tác khi lệnh đưa ra mà đối phương chấp nhận hợp tác thì việc đó đồng nghĩa với danh từ đang thôi miên.
Nếu ta muốn loại bỏ khí dơ cũ ta có thể xả dương xả âm, vận một luồng âm khí Đại Châu Thiên khi ta đứng hoặc ngồi trên nghế hai chân chạm đất, luồng năng lượng lớn mạnh dần tạo ra thế năng dư thừa trong cơ thể lúc đó ta cảm nhận một dòng xoáy khí êm đều rộng lớn từ sâu trong lòng đất tràn vào hai bàn chân ta vòng quanh hai bàn chân dâng dần dần lên cao qua bụng, qua ngực, qua đầu và đi thẳng lên cao mãi mãi, vĩnh cửu. Đó là quá trình xả âm trong quá trình đó ta quán tưởng dĩ vãng văng ra ngoài vòng tròn khí dâng lên rồi xa mãi mãi dòng khí của ta, đó là những dĩ vãng xấu đã ra đi ta gột rửa năng lượng làm sao cho chúng ta được trở vào vô vi.
Nếu ta tích dương thì xả dương, tích âm thì xả âm, nếu tích dương cho nhiều mà không muốn xả thì ta quay ngược dòng năng lượng lại. Ví dụ đang quán tưởng cửu dương kinh (Tiểu Châu Thiên) ta thấy nhiều rồi nóng hơn ta muốn ôn hoà lại thì dừng dòng kinh ta chuyển vào vô vi thiền học một lúc sau đưa dòng kinh ngược lại từ đầu ra sau lưng dọc sống lưng xuống và lên đằng bụng lên ngực lên đầu. Trong quá trình vận công thanh hoá cơ thể thì ngược xuôi đều được thanh hoá, nếu chữa bệnh cho người bị hàn âm thì tiếp dương liên tục, do đó ta phải truyền một dòng năng lượng tương đương và hội nhập năng lượng vũ trụ dương vào cơ thể, năng lượng dương là vào lúc còn ánh mặt trời, năng lượng âm là ánh trăng sao. Ban đêm tích âm xả âm, ban ngày tích dương xả dương. Nếu mất nhiều dương khí qua đêm thì khó tích luỹ dương khí lại có chăng đi giày đốt lửa mặc ấm chờ đến sáng mai.
Người hoà nhập vũ trụ khi đi ngoài đường nắng quá thì tích âm cho nhiều, lạnh quá thì tích dương, mưa gió to lạnh buốt thì vận khí dương đồng thời đóng cửa cơ thể không tham gia với bên ngoài, cắt trường năng lượng bằng cách ra lệnh cắt trường năng lượng đóng cửa chuyển hoá tăng điện trở cơ thể không trao đổi điện với không gian. Tức là đưa vô vi vào vô cực cắt luôn dòng chuyển hoá năng lượng trong cơ thể, không định hướng nữa.
Nếu không gian quanh ta luôn tươi đẹp, mát mẻ, êm đềm thì ta thu lấy hào quang đó của không gian bằng cảm giác hoà điệu và ám thị bằng lệnh hảy hòa quyện không gian và thu lấy hào quang không gian, sau đó là quá trình trao đổi năng lượng với xung quanh bằng tâm hồn đồng cảm như thế và lúc đó thần tiên thâm nhập vào ta và quanh ta chính là ta tan ra trong vũ trụ tuyệt vời này.
1.2. Trao đổi năng lượng với người khác phái (trái dấu điện):
Có một số người cùng phái yêu nhau, cưới nhau đó là sự chuyển hoá giới tính làm cho họ tự khác phái mình, giới tính chuyển hoá thì kinh lạc chuyển hoá thành ra tuy nam mà nữ, tuy nữ mà nam. Quá trình sáo trộn giới tính chắc chắn tồn tại với một tỷ lệ thích hợp và là một quy luật tự nhiên trong xã hội loài người, chúng ta phải luôn luôn tôn trọng tình cảm của họ vì đó là một trong sự hài hoà tự nhiên.
Chúng ta đang bắt đầu một chặng đường rất đặc biệt, trong tự nhiên sinh thành nam, nữ lớn lên trưởng thành tự tìm thấy nhau và hợp thành gia đình. Đó là một quá trình yêu đương của sự kết hợp âm dương tuyệt đẹp, du dương, ấm áp, đau đớn choáng ngợp và luôn cảm giác khám phá lạ lùng vào nhau. Chính ở đây sự mất cân bằng điện dâng cao thành một thế năng để ập vào nhau tạo ra một xung đột hình thành mầm non mới. Hiện tượng đó là tự nhiên sinh thành, vấn đề quan trọng nhất trong trao đổi năng lượng nam nữ để đạt lấy trường sinh là như thế nào?
Thông thường chúng ta quan niệm là khi một nam, một nữ kết hợp như một quan hệ vợ chồng thì mối quan hệ tình dục (vừa là tình yêu vừa là bảo vệ nòi giống) là tiên quyết, trạng thái tình dục và trạng thái năng lượng trao đổi qua nhau là hai trạng thái khác nhau. Trạng thái tình dục thông qua tình yêu và chắc chắn nam hoặc nữ đều xuất dương và xuất âm. Trạng thái yêu và năng lượng thì có nhiều điều khác lạ. Trao đổi năng lượng và yêu đương sẽ xảy ra song song tách biệt. Tuy nhiên, khi năng lượng được chuyển hoá qua lại thì quá trình phóng tinh trùng có thể không diễn ra, ta lý luận việc này như sau :
Năng lượng huy động đã chuyển hướng vào khí công, dòng khí công đã được huy động lệch pha không trực tiếp gây kích thích để phóng sinh hoạt hoá tinh trùng. Như chúng ta biết năng lượng của một cặp nam nữ cùng am hiểu trường sinh học khi kề bên nhau, yêu nhau sẽ được hoạch định theo một chiều hướng khác hẳn đời thường. Đó là quá trình tái sinh con cái và kia là quá trình tái sinh bản thân mình. Một bên là hy sinh tổng năng lượng hai cơ thể để tạo ra một cơ thể mới, một bên là tổng hợp hài hoà thanh hoá cực kỳ cao độ vượt qua ngưỡng cửa trung tính của huy động tổng lực, đưa quá trình đẳng nhất hoá xuyên thẳng trong cơ thể và đó là hậu thuẫn quan trọng trong trường sinh (không ly sinh mà tái sinh).
Người đời xưa tuy cũng am hiểu một đôi điều về phòng trung thuật nghĩa là tiết chế tình dục vừa phải không cho phát tiết hết mà canh giữ cho đúng độ, yêu không có nghĩa là tận mà là mơn man huyền bí. Tuy nhiên, phần lớn loài người đã sống quá buông thả yêu là cháy bỏng là tình ái trên giường, quan điểm về phòng trung thuật kiểu trường sinh là một quan điểm khoa học nó dựa trên một số luận điểm chính thức quan trọng.
Thứ nhất là không tiết chế tính dục bằng thuốc hoặc bằng ức chế tâm lý gây ra lần lần làm cho con người có cảm giác tạm thời bị diệt dục.
Con người nên sống tự nhiên theo tình cảm của mình vẫn có thể yêu đương, sinh hoạt tình dục, lấy vợ, gả chồng, sinh con, … thậm chí tâm hồn tự do sống độc thân không bị ràng buộc nhưng không yếu thể tiết dục và không sinh hoạt tình dục quá đáng.
Thứ ba con người cần được học trường sinh học là một quá trình không tự mất nhiều tinh khí mà ngược lại tinh khí đó dành cho tái sinh bản thân mình.
1.3. Quá trình tái sinh cơ thể:
Chọn cho mình một bạn tình hài hoà về tình dục. Ở những nơi có nền văn hoá mới thanh niên thường biết sống thử với nhau, ở đó dễ có cơ hội chọn bạn tình hoà hợp tình dục. Với nền văn hoá xưa cũ chọn đâu gửi đó thì chọn được hay không là một vấn nạn hên sui, khi đã có một cặp hài hoà thì du có xa cũng đợi chờ dù chỉ đi bên nhau cũng tâm đầu ý hợp chưa kể phải chung chăn gối. quá trình chuyển hoá năng lượng qua lại sẽ giải thích rõ cặp nào hoà hợp. Người có am hiểu trường sinh tâm niệm pháp sẽ dễ dàng lựa chọn bạn đời hơn, mà thậm chí chưa cần đến chăn gối.
Thường thì con người ta sống bằng lòng vị tha và dâng hiến, hai người kết duyên thành vợ chồng thoạt đầu thì yêu thương nồng ấm dần dần thành thói quen, quen lâu hiểu nhau nhiều và thấy ra sự khác biệt đôi chút lúc đó ai không giữ được lòng vị tha và dâng hiến sẽ là kẻ chán đầu tiên và tiếp theo có thể là sự chia ly. Tuy nhiên, nếu hiểu được Khí Công Tâm Trí Niệm Pháp thì những vấn đề như thế thường không dễ xảy ra.
Nếu không mất tinh nhiều mà tinh đó chuyển hoá trong cơ thể tức là quá trình chuyển hoá tinh khí thần đạt được tối đa, như thế là quá trình tái sinh cơ thể đang được thực thi, nếu quá trình này lặp lại nhiều lần đến mức bão hoà giữa dục vọng làm tình và vòng huyền hoá nuôi cơ thể của khí hải thì lúc đó chính ta là thần tiên sợi dây ràng buộc với con người (khác dấu), rất tốt đẹp mạnh mẽ nhưng vô hình như là không không vậy.
Nói là sợi dây tình không không, tức là không nhìn thấy, sự đằm thắm của tình cảm của cặp hôn phối có năng lượng diễn ra hài hoà bởi vì nó dùng để trao đổi năng lượng âm dương qua lại trong dòng chuyển hoá riêng, chung của tình – khí – thần, sự trao đổi này êm dịu và nhịp nhàng thấm sâu hơn nhiều so với một cặp nguyên thuỷ chỉ thuần tuý chuyển vận âm dương và tác động sinh hoá thông thường cho đến khi tình trạng xúc động mạnh nhất dẫn đến khoái ngất ngây, sau giai đoạn đó có thể hao tốn năng lực và không có tái sinh năng lượng cho cả hai người.
Một cặp năng lượng sẽ trao cho nhau trong một vũ điệu cuộc sống, giống như một vũ điệu nhịp nhàng của thể dục nhịp điệu bởi vậy nó đảm bảo bồi dưỡng cơ thể, đó là cuộc chuyển hoá một cặp truờng năng lượng hoà quyện thay thế cho nhau những nhược điểm bằng ưu điểm của người kia (dòng khí năng sẽ chạy vòng quanh hai người).
Thần kinh là dạng thông tin thụ động theo điều khiển của ADN thông qua hoạt hoá ARN một quá trình điện sinh sẽ điều khiển của cơ thể ta. Khí Công Tâm Trí Niệm Pháp làm quá trình điều phối dễ dàng ra dấu đến thay đổi hoạt hoá cơ thể, thay đổi về điện sinh, thay đổi về lý hoá sinh ARN và qua một quá trình 8 năm sẽ thay đổi được những khiếm khuyết của ARN. Tuy nhiên quan trọng nhất là quá trình rèn luyện liên tục và lòng tin vào công việc phải luôn là tuyệt đối cũng như chúng ta đã tin vào thánh nhân vậy.
Khi một người năng lượng truyền năng lượng khoẻ mạnh của mình cho một bệnh nhân, trong cơ thể bệnh nhân đó sẽ được trường năng lượng đối kháng và hoà quyện _ năng lượng khoẻ sẽ đối kháng năng lượng suy yếu bệnh hoạn và thay thế nó bằng một quá trình đồng dao. Cũng chính vì vậy người truyền năng lượng khoẻ sẽ thoạt tiêu bị suy yếu bởi những bệnh của người kia, quá trình thông tin về bệnh sẽ được thông tin về hệ năng lượng chuyển giao sao cho đối tượng khỏi bệnh.