23.Tạo tế bào mới thay thế (nhất là tế bào thần kinh) các tế bào khiếm khuyết của cơ thể (của dãy nhiễm sắc thể) – chữa bệnh di truyền

Phân tích phương pháp trị bệnh điển
hình:

Bệnh hẹp động mạch van tim (di
truyền).

Bệnh yếu tim do di truyền từ đời này
sang đời khác là một bệnh nan giải (khó chữa). Tuy nhiên chúng ta có thể chữa
khỏi bằng Khí Công Tâm Trí Niệm Pháp.

Triệu chứng bệnh:

Thiếu máu trầm trọng, hồng cầu rất
ít (máu loãng hồng nhạt) – thần kinh ngoại biên rất yếu – mắt nhanh mờ khi đọc
nhiều – da không có cảm xúc, mũi không ngửi được mùi nhạt (trừ những mùi mạnh) –
lưỡi không có cảm nhận, không phân biệt ngon dở ôi thiu.

Triệu chứng về sức khoẻ bên ngoài :
đi ngang đường rất khổ vì sợ xe cộ, không đi xe máy xa được 15 km kể cả ngồi
phía sau, có thể ngất sỉu bất cứ lúc nào nếu thần kinh bị sốc
nhẹ.

Triệu chứng về trường năng lượng :
khi bắt mạch ta hấy hàn âm nặng nề.

Thuốc dùng : chuyên dùng thuốc trợ
thần kinh và trợ tim (thuốc độc) – thuốc tăng hồng cầu
máu.

Chuẩn đoán
bệnh:

Bệnh ngày càng nặng hệ thần kinh
ngoại biên suy sụp, máu ngày càng loãng, cuộc sống nhờ thuốc và ý chí muốn sống,
cơ thể hàn âm nặng, bệnh máu trắng không thể sống quá 6 năm
nữa.

Cách điều
trị:

Cùng điều trị với thuốc tây y trong
vòng một năm, thầy thuốc tây y điều trị cho bệnh không phát triển nặng ảnh hưởng
đến công tác (việc làm) trông bề ngoài bệnh nhân có vẻ khoẻ khoắn đi làm được,
tuy nhiên, hậu quả là những thuốc kích thích, chống đau làm suy tàn dần cơ thể,
khô hạn là triệu chứng tiềm tàng của cơ thể.

Cách điều trị : trước tiên dùng
phương pháp day ấn huyệt khôi phục thần kinh toạ toàn thân của bệnh nhân, tiếp
theo là các biện pháp xoa bóp trên đầu, sống lưng, hai xương bả vai, hai tay hai
chân, xoa bóp lòng bàn chân. Tất cả các động tác kích động thần kinh tọa được
thực hiện trong vòng 15 phút.

Bước thứ 2 : khai mở các huyệt đạo
chủ yếu trên cơ thể  từ huyệt số 1 đến huyệt số 10 (đỉnh đầu ->
nhân trung -> cổ (ức) -> ngực -> dưới rốn -> hội âm -> thắt lưng
-> lưng -> cổ -> đỉnh đầu) -> kết hợp soáy gan bàn chân. Bước khai
mở huyệt đạo phải làm hai đến ba lần kéo dài 10 – 15 phút.

Bước thứ 3 : quán triệt một nguồn
trường năng lượng thâm nhập vào người bệnh qua cách truyền chính là lòng bàn tay
phải áp vào huyệt đạo số 8 – lưng, nguồn trường năng lượng này chính là dòng Khí
Công Tâm Trí Niệm Pháp của ta, pháp là những hiểu biết của ta về bệnh lý trước
tiên chúng ta tạo ra một bức xạ sức nóng, dòng năng lượng là rất lớn có thể gây
ra bỏng da (tuy nhiên da người sẽ tự toát mồ hôi để làm sức nóng dịu lại). Dòng
khí lan tỏa theo trường năng lượng yếu sẵn có trong người và làm cho hệ thần
kinh kích hoạt cường độ dòng chảy huyết mạch, ở đây người trị bệnh phải toàn tâm
ý quán triệt dòng chảy năng lượng giống như ta đang đạt mức siêu tĩnh điện, lúc
này ta không được có ý nghĩ nào khác ngoài niềm băn khoăn là huyết mạch có đủ
hồng cầu và dòng chảy có đủ mạnh để bệnh nhân mau lấy lại
sức.

Đồng thời với ta bệnh nhân cũng phải
hoàn toàn tin tưởng chuyên tâm vào sự thành công của người trị bệnh, người bệnh
phải luôn luôn mô tả các triệu chứng xảy ra trong người họ theo quá trình chữa
trị. Dòng khí hải sẽ lần lần chuyển động như dòng nước mát chảy vào ruộng khô,
người bệnh cảm thấy sự khai phá ngọt ngào, nhợt nhạt dần dần trên con đường nó
đi qua và đó là hiện tượng khai thông khí hải trong cơ thể người bệnh, không thể
dùng một năng lượng thật mạnh mà phải từ từ thấm nhuần, mỗi lần nạp trường năng
lượng như vậy phải mất ít nhất một giờ, nhiều nhất là hai giờ. Điều quan trọng
nhất là học cách chữa bệnh về tim, thầy thuốc phải đọc cho nhiều và phải suy
nghĩ về vấn đề chữa bệnh tim, khí công chỉ là phương tiện vận tải tri thức con
người phục vụ con người, nhưng cũng chính trên quan điểm này mà nói thì các bác
sĩ tim mạch nếu am hiểu Khí Công Tâm Trí Niệm Pháp sẽ là những bác sĩ hàng đầu
trong công việc này.

Trở lại quá trình chữa bệnh : sau
một năm người bệnh thoát ra khỏi luồng hàn âm (thoát chết), bác sĩ tây y giảm
thuốc lần lần và sau một năm không dùng thuốc tây y nữa. Dòng trường năng lượng
đã tích lũy và tạo ra hệ kinh lạc năng lượng đã đẩy tất cả các loại thuốc kháng
sinh ra khỏi con người (thoát khỏi độc tố). Bởi vì bệnh nhân vẫn còn trong trạng
thái quá yếu không thể ngồi thiền định được vì sẽ rơi vào ảo giác nghiêng ngả
nên ta phải dùng phương pháp quy nạp liên tục năng lượng mỗi ngày 3 lần, mỗi lần
1 giờ (sáng, trưa, chiều). Cố tạo ra một thói quen vận chuyển máu và dòng khí
hải chạy qua cơ thể bệnh nhân, lúc này bệnh nhân không còn dùng thuốc tây nữa,
nên quá trình tiếp năng lượng là cực kỳ quan trọng trong khoảng năm thứ hai của
việc chữa bệnh là quá trình phục hồi thần kinh tọa, nhất là quá trình phục hưng
tủy sống nơi sản xuất ra hồng huyết cầu, bên ngoài phương pháp chữa bệnh vẫn như
cũ 15 phút ấn huyệt thần kinh tọa từ đầu đến chân sau đó 10 – 15 phút khai mở
huyệt đạo từ đầu đến chân cộng thêm quá trình mát sa lưng cho toàn bộ hệ thần
kinh được kích hoạt và được thư thái, quá trình bức xạ năng lượng vẫn bằng lòng
bàn tay phải áp vào huyệt số 8. Tuy nhiên, cần phải học về quá trình tạo ra hồng
huyết cầu. Học về hệ thần kinh toàn cơ thể, lúc nào cũng phải tâm niệm là làm
thế nào để bệnh nhân có độ vững vàng về thần kinh và làm thế nào để tuỷ sống
được hoạt hoá tối đa. Ở công việc chữa bệnh này chúng ta phải nhớ rằng phương
pháp chữa bệnh chỉ có một nhưng kiến thức về việc định chữa bệnh phải đọc sách
và suy luận. Nếu ta không đọc sách và không suy luận ra giải pháp chữa bệnh thì
toàn bộ quy trình chữa bệnh sẽ không đem lại hiệu quả gì hết, và chính ta sẽ rơi
vào trạng thái bệnh lý giống như bệnh nhân và đó là điều rất tệ hại cho bệnh
nhân và bản thân ta. Khi muốn chữa bệnh cho người nào thì bản thân ta phải có ba
công cụ chính đó là:

Khả năng tuyệt đối về Khí Công Tâm
Trí Niệm Pháp với ba năng lượng sẵn có trong cơ thể và lấy từ vũ trụ vào
người.

Đọc sách, học về y học chữa bệnh đó
và tự tìm ra giải pháp của mình để làm công cụ các tập thông tin được giải mã
chữa trị theo ý của chúng ta.

Giám hy sinh thân mình toàn tâm toàn
ý chữa bệnh cho bệnh nhân.

Mô tả
chữa bệnh ( rối loạn huyết thống ) cận tâm thần

Người bệnh nhận khí công tốt nhất ở:

1.    
Huyệt
đỉnh đầu (Bách hội – tiền đỉnh)

2.    
Huyệt
thần đạo (lưng đốt sống thứ 6)

3.    
Dũng
tuyền (lòng bàn chân)

4.    
Mệnh môn
(bụng và lưng)

Thầy chữa bệnh thường là trong tư
thế ngồi thẳng lưng, đầu gối vuông góc trên ghế cao vừa phải. Không gian thoáng
mát vừa phải (không nóng, không lạnh, thoáng gió, không bị nắng chiếu thẳng),
trong tư thế thiền định và vận trường năng lượng Đại Châu Thiên mở rộng theo
dương khí.


                                     
Hình 33

Khi tâm tưởng đạt đến tĩnh không thì
quyết định đưa luồng năng lượng vũ trụ vào người quán tưởng là một soáy tròn
năng lượng thuận chiều kim đồng hồ (tự ý thức phân bổ không cố tình). Chân trần
tiếp sàn nhà để thuận xả dương khí thừa, trong một tâm linh trống bỗng lạc vào
hư vô như là đạt đến Plasma (siêu tĩnh) chỉnh cho dòng trường năng lượng từ từ
nhập vào cô thể người bệnh, ví dụ: tại Thần đạo người bệnh trong tư thế nằm sấp
trên giường chân tay duỗi tự nhiên. Người bệnh có thể ngồi quay lưng, ta nhập
năng lượng bằng lòng bàn tay phải lên thần Đạo hoặc đỉnh đầu (Bách hội), người
bệnh có thể nằm ngửa ta nhập khí vào mệnh môn. Giả sử ta chữa bệnh thần kinh tại
huyệt Bách hội – Tiền đỉnh, trước tiên ta làm thủ tục khai thông kinh lạc mạch
Nhâm đốc soáy toàn bộ huyệt chủ đạo bằng ngón tay trỏ. Sau đó ta làm động tác
kích thích tủy sống bằng cách đấm nhẹ đều tay bên sống lưng. Sau đó dùng tay
phải đặt lên đầu chuyển trường năng lượng vào não khoảng 10 phút, tiếp theo ta
chuyển tay phải đến huyệt Thần đạo (giữa lưng) và áp ở đó trong vòng 60 phút,
toàn bộ các động tác kéo dài khoảng 100 phút. Khi bắt đầu phát khí chữa bệnh
lòng bàn tay và nơi tiếp súc vị trí huyệt sẽ nóng lên chừng 38 –
400C, toàn thân bệnh nhân ướt đẫm mồ hôi – qua một thời gian chữa trị
(khoảng 20 lần) cơ thể bệnh nhân thích nghi và tự điều hòa thân nhiệt. Khi ta
cảm giác thong dong là được. Trong quá trình phát công ta phải niệm là: “Hãy
chuyển máu đen thành máu đỏ hồng ấm áp – Hãy bình tâm nhận lấy sức khỏe mà ta
ban cho”, bệnh nhân sẽ chìm vào một cơn ngủ mê thiếp đi nhẹ nhàng và sau đó tiếp
tục một giấc ngủ thật cho đến khi tự tỉnh giấc.

Thầy thuốc sẽ thấy bị rút năng lượng
từ trong tủy xương cánh tay, đầu não sau đó sẽ bị rới vào tình trạng như tâm
thần, ta cần cẩn thận vận công tự xua tan trạng thái bệnh đó, có thể ta phải mất
tới 14 ngày mới khỏi. Tuy nhiên, ở những lượt chữa tiếp theo ta nhận thấy mức
đối kháng bệnh tật nhạt dần và tiến vào trung hòa, như vậy cũng có thể ta đã
thành công? Ta hy sinh ta bao nhiêu thì trời đất sẽ cho ta lại hơn như thế – quả
là hạnh phúc.

Thật vậy: khi truyền một trường năng
lượng định hướng chữa bệnh gì cho bệnh nhân thì đồng thời toàn bộ căn bệnh đó sẽ
xâm nhập vào người của chính ta. Nếu bệnh nhẹ có thể ta sẽ lướt qua dễ dàng, nếu
bệnh nặng trong một chừng mực thông tin ngược chiều về căn bệnh đủ mạnh sẽ làm
cơ thể ta nung nấu tự chữa bệnh cho ta. Nếu một nhà khí công còn yếu mà đi chữa
bệnh sẽ dẫn đến ngất xỉu. Có những lúc nhiễm bệnh, nhà khí công phải ngưng chữa
vài ngày để cơ thể ta tự chữa bệnh và trí tuệ ta vượt qua cơn bệnh đó bằng tư
duy chữa bệnh. Sau một quãng thời gian nhất định trường năng lượng của ta sẽ
mang thông tin về phương pháp chữa bệnh trong cơ thể ta được truyền qua người
bệnh và cơ thể bệnh tiếp nhận thông tin đó để tự chữa bệnh. Như vậy, ta chỉ là
một chủ thể tác động, hướng đạo cho cơ thể tự chữa bệnh và giải pháp chữa bệnh
không do ta tạo ra mà do chính tiềm năng cơ thể ta tạo ra.

Trở về với việc chữa bệnh máu trắng.
Năm thứ nhất tạo ra một thói quen luôn có một trường năng lượng thích nghi để
sản sinh thêm hồng cầu và cung cấp cho cơ thể càng ngày càng nhiều lên lượng oxy
và vật chất dinh dưỡng. Không cần các thuốc kích thích trước kia nữa vì cơ thể
sinh học đã tự hoạt hoá.

Từ năm thứ hai, tôi để tâm đến việc
khôi phục thần kinh. Đây là quá trình chữa bệnh gian nan, nặng nề nhất. Quá
trình này kéo dài hai năm. Điều quan trọng là đối thoại liên tục giữa bệnh nhân
và ta. Trong quá trình tác động Khí Công Tâm Trí Niệm Pháp tuy định hướng là
thần kinh nhưng khí hải vẫn tự hoạt hoá phần tăng dòng chảy của huyết mạch làm
rộng dần tĩnh mạch từ tim lên đầu. Ta tạo ra một thói quen của cơ thể bệnh nhân
là tăng cường một dóng khí hải cực mạnh. Từ hội âm đến đỉnh đầu. Dòng này chạy
dọc sống lưng, khai thông toàn bộ tuỷ sống, giống như ta làm nóng tuỷ sống lên
tạo ra một tiến hoá dồng nhất với thần kinh não bộ và từ đó, nhiệt độ cơ thể
ngày càng ấm lên. Lúc này, triệu chứng cơ thể đã tốt hơn rất nhiều, cơ thể đã
chuyển sang nóng ấm đều trên da. Bắt đầu có mô hôi trên da, lưỡi đã bắt đầu có
vị giác (khi ăn đã có cảm giác ngon miệng), mũi bắt đầu ngửi thấy mùi vị tương
đối nhẹ ví dụ mùi mực khô nướng, mùi hôi kênh nước bẩn, mùi thức ăn chân giò giả
cầy … Có một giác quan tiến bộ vượt bậc là mắt bỗng nhiên sáng hẳn ra. Có thể
nhìn thấy chữ viết nhỏ cách 20 đến 30 m. không cần đeo kính nữa (đang đeo kính
mà bỏ luôn ở độ tuổi 40). Lúc này, cơ thể đã có thể tự hoạt hoá năng lượng khí
hải mà không cần tiếp năng lượng trong vòng tối đa 7 ngày. Cơ thể bệnh nhân đã
có thể đủ sức chịu đựng ngồi xe máy nhiều giờ đồng hồ.

Sau gần 03 năm, bệnh đã thuyên giảm
nhiều, tuy nhiên năng lực thần kinh rơi vào khủng hoảng giống như toàn bộ hệ
thống trước kia đã được thay thế bằng một hệ thống mới nhưng còn quá non trẻ yếu
đuối, người bệnh chuyển sang một giai đoạn tâm lý phụ thuộc, không tự chủ …
Trong lúc đó, tôi đã nghĩ ra một sáng kiến kì dị: bệnh nhân là phái nữ lại mang
đậm sắc âm tính, tôi là một tính dương mạnh mẽ, bởi vậy trong quá trình tiếp xúc
năng lượng, quá trình trao đổi năng lượng chữa bệnh liên tục từ cơ thể tôi qua
cơ thể bệnh nhân từ năng lượng vô lượng đã biến thành vật chất sống thay thế các
khiếm khuyết tạo ra cho bệnh nhân một hình hài từ máu xương đến thần kinh, từ
một phần cơ thể đến linh hồn. Bởi vậy là tôi đã gửi vào người bệnh nữ một đứa
trẻ mạnh khoẻ tràn đầy sức sống, nó chính là năng lượng sống và vật chất sống từ
từ xen kẽ vào cơ thể bệnh nhân, nó là một phần trong cơ thể bệnh nhân về vật
chất nhưng lại có một tinh thần độc lập. Vậy là trong vô hình, tôi đã trao cho
người bệnh một đứa con bằng năng lượng với đầy đủ các tập thông tin về phương
pháp chữa bệnh, phương pháp bảo vệ cơ thể của mẹ của nó (người bệnh), sự thay
thế các khiếm khuyết trong cơ thể người mẹ bằng các ưu điểm cơ thể của tôi.

Các năm tiếp theo, năm thứ tư và năm
thứ năm người bệnh đã gần như hết bệnh, cơ thể và các cảm xạ đã gần như người
bình thường trong độ tuổi nữ hơn 30 tuổi, cô ta có thể khỏe mạnh hơn nhiều người
cùng lứa tuổi đó ở trạng thái bình thường. Mô tả về chữa bệnh và các đối thoại
qua lại giữa tôi và người bệnh trong thời gian năm năm là rất nhiều và rất kì dị
(2001 – 2005). Sau đó tôi đã rút ra một số điểm quan trọng:

Khi ta trao cho bệnh nhân một năng
lượng thăm dò và năng lượng đó chạy xuyên suốt qua người bệnh trong một thời
gian nào đó, năng lượng của ta sẽ cài vào năng lượng người bệnh và đọc bệnh lý.
Năng lượng hỗn hợp đó lại quay lại và vào người của ta và mô tả trong ta bệnh lý
của bệnh nhân, cơ thể ta nhiễm bệnh đó và lập tức chạy chữa. Tức là tạo ra một
trường năng lượng khỏe, kháng cự lại bằng một phương pháp của cơ thể ta, lúc bấy
giờ bản thân ta phải qui nạp phương pháp chữa bệnh bằng đọc các sách về bệnh đó,
học vấn mới sẽ giúp cho cơ thể ta đủ sáng tạo xoay chuyển tình thế và tạo ra một
dòng Khí Công Tâm Trí Niệm Pháp chữa đúng bệnh thâm nhập vào người bệnh. Trong
một thời gian dài liên tục như thế cơ thể và trí năng của ta luôn có dòng chữa
bệnh rất mạnh khỏe, lúc bấy giờ dòng chảy bệnh sẽ bị đẩy hẳn ra ngoài cơ thể
người bệnh. Bản thân ta vượt qua cơn bệnh và mãnh liệt chạy chữa cho người bệnh.
Dòng trường năng lượng là một dòng hạ nguyên tử và nguyên tử đã bù đắp vào các
khiếm khuyết của thông tin người bệnh, nếu không bù đắp hết thì nó tạo ra một
bản năng mới kế cạnh giống như lấp đường cũ, mở một con đường mới để đi qua.

Tạo ra một người hoạt hóa kế cận ta
giống như một đứa con tinh thần vì nó còn trẻ (mới sinh ra vài năm), nhưng nó
lại rất mạnh mẽ và thông thái vì nó bảo vệ người bệnh hoặc bảo vệ ta, nó có phần
xác trong ta nhưng phần hồn độc lập vì vậy nó có thể rong chơi, ta có thể đặt
tên cho nó cũng giống như bí danh của ta vậy. Nó là một kẻ thông thái và hoạt
hóa mà tôi đã mô tả ở một chương trước, người hoạt hóa của ta sẽ tồn tại song
hành với ta cho đến một ngày nhiễm sắc thể của ta và của nó giống hệt nhau, lúc
đó nó sẽ là ta nhưng linh hồn là riêng biệt, linh hồn có thể dạo chơi rất xa,
nếu linh hồn là một bức xạ lượng tử của một nhà khí công xuất chúng thì sóng
giao động của nó là vô tận, linh hồn đó sẽ đi ra ngoài không gian địa cầu và
thâm nhập vũ trụ. Tốc độ hòa nhập có thể hơn tốc độ ánh sáng mà chúng ta đã
biết.

Năng lượng vô tận là từ không gian
bên ngoài ta, tại sao loài người cần đến Thiên Chúa? Tại sao loài người cần đến
đức Phật Tổ? Tại sao loài người cần đến đấng Ala? Tại sao loài người cần đến thần Siva? Tại
sao loài người tôn thờ thần Zen? Bởi vì người năng lượng vô tận là từ không gian
bên ngoài ta, nguồn năng lượng đó đã cứu rỗi tôi. Khi tôi hy sinh thân mình để
cứu rỗi người bệnh cơ thể tôi mất năng lượng trầm trọng, tối sầm và ngã xuống.
Trong một sự cố gắng tột cùng tôi đã học được cách lấy năng lượng từ bên ngoài
vào mình (dĩ nhiên là sau cú ngã thứ 4)

Nếu ta lấy năng lượng bên ngoài vũ
trụ đủ nhiều vào ta thì ta không cần ăn nữa? Ta sẽ là một điểm dung hòa năng
lượng vũ trụ một chiều vào và một chiều ra hoặc nói cách khác năng lượng thâm
nhập và năng lượng phóng thích. Tuy nhiên, một người không cần ăn nữa thì sẽ là
thần tiên, thần thánh mà tôi chưa dám thử như thế, có lẽ một số truyện cổ thần
tiên là có lý do hoặc giả cảnh quan thần tiên là có thật nhưng ở trong một thế
giới song hành với ta mà bản thân ta không nhận ra. Cũng như thế giới tâm linh
với các linh hồn là có thật và các linh hồn có thể sống tới nhiều trăm năm, cùng
sống trong vũ trụ song hành với ta trong những chiều cuộn lại và nối với nhau
bằng những sợi mảnh không có kích thước và không có không gian, thời gian, không
có khối lượng.

Phật ở trong ta (ta ở trong phật),
tế bào ở trong ta nó mang nhiễm sắc thể nói lên toàn bộ mô hình của ta (vật chất
và tâm linh), bất cứ một tế bào nào cũng mang một thông tin chung là ta. Một
chùm hạt lượng tử của tế bào cũng mang toàn bộ thông tin của tế bào đó tức là
chùm hạt lượng tử cũng mang thông tin là ta, một chùm hạt hạ lượng tử cũng mang
thông tin là ta, như vậy từ tế bào mang mã di truyền ADN trở lên là ta trong
dáng hình vật chất. Từ tế bào trở xuống các hạt lượng tử và hạ lượng tử sẽ là ta
trong dáng hình tâm linh.

Ta ở trong vũ trụ mang bản sắc vũ
trụ các nguyên tố và tính lý hóa của chúng, từ ta đến vũ trụ là dáng hình vật
chất, từ ta trở vào là vật chất và tâm linh (còn gọi là tâm
linh).

Tâm linh trong hình hài hạ lượng tử
đã giao động vào vũ trụ một biên độ nào đó và nhận thấy ở đâu đó một tâm linh
vời vợi như là trời vậy, trời mà sống ở đây thì con cũng sẽ theo như vậy, Phật ở
trong ta (ta ở trong Phật), Phật sẽ dạy cho ta Phật Pháp vô biên. Trường sinh
bất lão?