Lý thuyết Trường Sinh

4.1.     Lý thuyết về năng lượng khí công:


Năng lượng khí được sinh ra như thế nào?



Hình 7: Muốn sống

Thực ra, người nào cũng có dòng khí chảy qua trong kinh lạc của mình và phù hợp với trường năng lượng riêng của từng người. Vật thể vô tri cũng có trường năng lượng được tạo thành bởi các lực vũ trụ. Con người là một vật thể sinh học, trường năng


lượng của ta một phần được tạo thành từ các lực tương tác vũ trụ, trái đất và trăng sao, phần còn lại là của bản thân ta.


Tuy nhiên, đó chỉ là một người thụ động về năng lượng. Nếu chủ động hơn, ta cần nghiên cứu cách vận dòng khí chạy trong cơ thể. Có rất nhiều sách chỉ dạy cách vận khí, hành khí, và chữa bệnh bằng khí. Riêng phần này sẽ được phân tích rất kỹ ở những chương sau.


Một người am hiểu sẽ cho dòng khí chạy theo mạch Nhâm – Đốc và ngược lại. Qua một thời gian khoảng 3 năm, có thể vận khí chạy toàn cơ thể theo một vòng Đại Châu Thiên, rồi chạy đảo ngược vòng. Sau 3 năm nữa, ta có thể tập thở thông thiên địa bằng cách mở tất cả các luân xa. Ta có thể thải dương, nối cơ thể với vũ trụ và trái đất, cho khí chạy từ vũ trụ qua đỉnh đầu, rồi xuống chân và xuống đất. Thải âm và quá trình ngược lại: dòng khí đi từ đất qua bàn chân và thoát khỏi đỉnh đầu vào vũ trụ. Đồng thời với thở âm, dương, ta có thể quy nạp năng lượng vũ trụ qua da trên khắp cơ thể. Tất cả những quá trình đó phải tập thêm 3 năm nữa. Một người có nhiều cơ hội tập luyện sẽ trải qua 6 năm mới đạt được hít thở cũng vũ trụ. Còn thông thường, phần lớn chúng ta vì cuộc sống rất bộn bề công việc kiếm sống và học cách kiếm sống, sẽ phải trải qua trên dưới 10 năm tập luyện mới hòng đạt được hơi thở vũ trụ.


4.2.     Ảnh hưởng của năng lượng khí đối với đời sống con người có khí và người nhận khí:


 Thoạt tiên, cũng có nhiều người tập khí công để tự chữa bệnh và tạo cho mình sức khỏe để sống lâu. Sau một thời gian học tập, chúng ta cảm thấy mình có sức khỏe, bớt một số bệnh và có vẻ trẻ ra. Tuy nhiên, tất cả đã tạm dừng ở đó. Một số các cao thủ có thể vận khí chữa bệnh, đạt được các định mức uyên bác về vận khí và hành khí. Dù vậy, khí công không phải là tất cả của học thuyết Trường Sinh. Những nhà võ công có thể vận khí và thực hiện được điều phi thường như cho xe du lịch chạy qua ngực, dùng ức uốn cong sắt thép, khúc côn đánh vào tay thì côn đó gãy đôi. Múa kiếm, thương, … thì cực kì nhanh nhẹn, uy vũ, có thể đánh thắng nhiều đối thủ. Một số người có uy lực chữa bệnh cách không, có thể cải tạo được trường năng lượng khuyết tật của con người là cho trường đó ổn định lại, tức là làm cho một bệnh nào đó bên trong cơ thể dần hồi phục. Có người có thể tạm ngưng tuần hoàn và giữ nhịp thở ở mức gần bằng không trong thời gian nhiều ngày. Có người có thể đọc được ý nghĩ, xuất hồn, có người có thể thôi miên một lúc nhiều người khác.


Trở về năng lượng khí trong học thuyết Trường Sinh. Bản thân tôi về vận khí, hành khí còn thua nhiều người, để chứng minh về nó, có lẽ tôi là một trong những người có số điểm thi kém nhất. Tôi không có năng lực uốn cong thìa nĩa từ xa, tôi không thể dùng ý thức để nhấc bao diêm bay vào không trung hoặc ngồi thiền để bay lên một đoạn, tôi không đủ quyền năng áp chế linh hồn của một ai đó, tôi chưa thể nhịn ăn hoàn toàn. Tôi vẫn có (tuy chỉ bằng 1/5 người đời) tình dục của một con người, tức là hỷ, nộ, ái, ố. Mặc dù vậy, về quan điểm thích nghi với cuộc sống, tôi khác với xã hội ngày nay nhiều lắm.


4.2.1.   Thứ nhất: ít lệ thuộc vào không gian và thời gian.


Không gian tức là môi trường ta sống, bao gồm thành phố, nhà cửa, cây xanh, gia đình, luật lệ xã hội. Đối với không gian này, tôi là một cỗ máy tuân thủ bằng thân thể, còn linh hồn thì vẫn độc lập. Ví dụ, tôi đang chạy xe trên đường thì một cơn mưa đổ xuống làm ướt áo quần, nhưng một giờ sau áo quần sẽ khô. Tôi cũng đang đi trên đường thì bất chợt trời lạnh giá, tôi sẽ bị lạnh 5 phút, sau đó nhiệt độ trong người tăng cao và tôi tự nhiên không bị lạnh nữa. Nếu trên đường nhiều bụi bẩn, tôi sẽ tăng tốc xe qua đoạn đường đó và trong thời gian đó, tôi thở rất ít hoặc ngưng thở, bụi sẽ không xâm nhập vào cơ thể tôi được.


Tôi dạy học ở trường Đại học Kiến trúc từ năm 1980 đến nay. Quá trình dạy học là một quá trình kỹ thuật, tâm lý kích thích học tập cho sinh viên và cũng chỉ thế thôi, nó không ảnh hưởng đến tâm linh của tôi.


Tôi có hai công ty TNHH về thiết kế và thi công xây dựng. Trong điều kiện khó tiếp xúc với nguồn vốn xã hội như hiện nay (chưa bao giờ được vay ngân hàng) và với mức sống nghèo khổ của Việt Nam, cơ hội công việc rất hạn chế. Tuy nhiên, trong nhiều năm, tổng công ty của tôi vẫn phát triển vững mạnh. Không thể giàu có được ở đây nhưng tôi không mắc nợ ai. Hơn thế nữa, đội ngũ cán bộ kỹ thuật của công ty đang tăng trưởng liên tục, và tiền lương họ hàng năm tăng 20%. Tôi tham gia triển lãm tranh tượng nghệ thuật trong nhóm tháng 11, gồm 5 họa sĩ – kiến trúc sư. Rõ ràng tranh của chúng tôi chưa thuộc vào hàng xuất sắc nhưng cũng đủ để chúng tôi gia nhập Hội Mỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh.


Điều tôi yêu thích nhất và hằng mang trong tâm tư suốt bấy nhiêu thời gian cuộc đời là ý nguyện thành lập Đại học Trường Sinh. Tất cả các ý nguyện đời thường của tôi đều thành hiện thực. Như vậy, ý nguyện cao cả nhất này cũng sẽ thành hiện thực trong khoảng 10 năm tới. Tôi dự kiến sẽ quyên góp tiền trên toàn thế giới: Châu Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á, Châu Á Thái Bình Dương. Ba năm nữa tôi sẽ xuất bản cuốn đầu tiên về Đại học Trường Sinh và cho truyền bá trên khắp thế giới thông qua phiên bản Anh ngữ. Trong 5 năm tiếp theo, với mạng Internet ngày càng phát triển rộng khắp thế giới. Tôi hy vọng sẽ có nhiều người, và quốc gia hùng mạnh như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Châu Âu, giúp đỡ tôi. Trường học đầu tiên sẽ được xây dựng ở ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh. Các trường khác sẽ được xây dựng liên tiếp sau đó ở nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển. Viễn cảnh đó thật huy hoàng. Hiện tại, tôi rất mạnh khỏe dù đã 49 tuổi (tôi sinh năm 1952). Tôi là giáo viên không phải đeo kính. Tôi vẫn sáng tác kiến trúc, đọc báo ngày 2 – 3 tờ, một tuần đá banh 2 tiếng, mỗi ngày ăn rất ít, uống nhiều bia, tâm hồn trong sáng, tươi trẻ, tĩnh lặng hoàn toàn. Mỗi ngày, tôi ngủ khoảng 5-6 tiếng đồng hồ, đôi khi xem đá banh tối, sáng mai sẽ ngủ bù.


Con người có khí công Trường Sinh tức là hạn chế tối đa các ưu tư vương vấn tâm tư trong cuộc sống xã hội. Con người đó vượt qua các khó khăn một cách trọn vẹn. Con người đó sẽ phân tích các điều kiện nan giải và tìm cách giải quyết nó một cách xuất sắc. Các khó khăn nhẹ hơn sẽ được giải quyết nhanh chóng hơn. Con người đó không bị vướng trong môi trường sống, ít bị lệ thuộc vào bên ngoài, luôn luôn sáng suốt, thanh bạch, luôn luôn sẵn sàng sáng tạo để phục vụ cuộc sống con người và phục vụ chính bản thân mình.


Cảnh giới tuyệt đẹp ở Đạo khí công trường sinh là cảnh giới đơn sắc và đa sắc. Một mình ta có cảnh giới đó thì ta sẽ cảm giác cô đơn vì ta thấy mình đứng gần sát bên người đời nhưng không ở trong đó. Ta nhìn thấy người đời đang già nua và không phân tích cho họ hiểu được vì ngôn ngữ của ta là im lặng trong thinh không. Con người vốn dĩ bất khuất, hay nóng giận, có thể liều chết để bảo vệ chân lý. Vậy, ta chỉ là người ngoài, hiểu được hay không là cả một sự tự nguyện, và nguyên theo Đạo khí công trường sinh là một hành động cao cả, thần tiên nhưng khó gần … Cảnh giới đa sắc và sự hòa quyện âm dương. Một nhà nam hòa quyện một nhà nữ trong cảnh giới đa sắc sẽ tạo ra cảnh giới đa sắc và sinh ra tiến hóa vượt thời gian và không gian. Quá trình sáng tạo của loài người cần phải được nằm trong cảnh giới đa sắc. Sự thống nhất phi thường của tâm linh đa sắc sẽ là nguồn gốc của luật tiến hóa đại nhảy vọt của loài người trong một tương lai gần. Tập hợp các cảnh giới đơn sắc và các bộ cảnh giới đa sắc sẽ tạo ra xã hội loài người mới khác xã hội cực kỳ thông minh, những phát minh trong nghịch lý và những giàn xếp giữa mô hình xã hội và tôn giáo thống nhất là những viễn cảnh kỳ lạ.


Để tạo ra cảnh giới đa sắc thì năng lượng trường sinh được truyền qua nhau theo nhiều cách: truyền áp sát, truyền cách không và các lời thông tin qua lại không ngừng (nói chuyện qua lại). Tình dục âm dương là một cội nguồn phát triển tự nhiên trên trái đất. Chúng được phân hóa riêng và phát triển lên đến bậc cao là con người. Sự kích thích âm dương cao độ sẽ sinh ra đứa con mang đặc điểm mạnh nhất của dương và mạnh nhất của âm. Rồi đây, loài người cũng phải tuân thủ điều luật đó. Thoạt tiên, hai người đời thường sẽ gặp nhau, cảm mến và phấn kích. Những đứa con khôn lớn sẽ gia nhập Đạo Trường Sinh, chúng sẽ là nửa người nửa tiên. Khi muốn đẻ con thì làm người, khi muốn hạnh phúc thì là tiên. Nói cách khác, con người có thể là bất diệt và diệt – sống mãi và chết. Trong cảnh giới đa sắc của Đạo Trường Sinh, âm dương hòa quyện vào cõi vô cực – cõi 0 – 0, tức ta quay lại quá trình sống đầu tiên là đơn bào tự phân, ta có xu hướng quay về phần tử sống của quá khứ, rất gần với vật chất không sống, đó là sự tĩnh lặng và vĩnh hằng.


Một tác nhân cực kỳ quan trọng là quá trình lý luận, khí nói đối đáp, đó là những lời không được sai, không nói dối, lừa bịp, không khoa trương, đố kỵ, chèn ép. Những tư tưởng, lập luận logic, khoa học được diễn đạt với tâm hồn cao thượng, vì mọi người và vì lương tri của bản thân ta.


Ta đang nói đến chữ TâmNiệm. Bất cứ một môn đồ nào không để hai chữ Tâm và Niệm ở độ trong sáng 100% sẽ đều thất bại trong tương lai gần. Bởi vì bản thân những công việc làm của người đó cũng chính là vật chất và linh hồn của họ là những tồn tại hiện hữu có thật. Vì vậy, nó không thể là tà tâm và ngụy quân tử được, vì hai điều đó là trái với luật sáng tạo vũ trụ. Điều sai không thể bằng hoặc giống với hiện thực là đúng.


Loài người vốn dĩ lớn lên và sinh thành chưa hiểu hết luật tổng quan của vũ trụ. Người ta sinh ra và lớn lên bằng tiền bạc và lao động, người ta có quyền nói thỏa thích. Người ta có mọi quyền tự do cá nhân. Tuy bị ràng buộc trong một xã hội nào đó nhưng họ cảm giác hưng phấn tự tôn, tự chọn lấy quan điểm sống cho mình. Mỗi người sẽ lý luận khác nhau, sẽ anh hùng, hoặc tiểu nhân, hoặc cho mình là quân tử … Tuy nhiên, thực sự trong cảnh giới đơn và đa sắc trường sinh, con người sẽ luôn đạt tâm niệm trong sạch. Dĩ nhiên, tạo hóa sinh ra con người không giống nhau, tiếp thu kiến thức ít và nhiều. Loài người rồi đây sẽ có sai lệch trong Niệm Pháp, nhưng tâm là luôn luôn đúng, bởi vì thần tiên là khác đời thường ở Tâm Pháp đó.


Khi ta nói đến sự cấu tạo hòa điệu thì chúng ta đang ở trong tổng thể đồng điệu đó vì ta là tổng thể lệ thuộc toàn diện và cái chung, cái chung đó chính là thiên đường. Như vậy, ta đứng ngoài những người khác, ta không lệ thuộc vào không gian và thời gian của họ.


4.2.2.   Thứ hai: nhìn xuyên qua lương tri đời thường.


Ta có thể đọc được đối phương nếu họ bắt đầu giao thiệp với ta bằng một câu chuyện bâng quơ nào đó. Ánh mắt và lời nói người đời có thể nói dối, nói thật. Mặc dù, ta đều hiểu được tâm hồn, sở thích, ý nguyện của họ, họ muốn gì và họ định làm gì. Môi trường cộng đồng xã hội bắt con người làm việc và giao tiếp. Môi trường của sự tự do cá nhân và gia đình đẩy đưa con người đi du lịch, đi chơi và tự tạo ra cho mình tâm tình sảng khoái. Người đời thường là những dao động trường sinh học có giới hạn. Công việc làm và những cảm giác cuộc sống là những phạm trù xác định. Ngược lại, đời tiên là vô biên, bởi vì giới hạn của sự hiểu biết là vô cùng tận nên họ cảm giác trong sáng, trống vắng và thanh thản. Khoảng trống vô định hình trong họ như xem các kênh truyền hình vậy. Tuy nhiên, khi xem, đáng lẽ xuất hiện một hình ảnh thì họ thấy nó là một đồ thị. Vấn đề là từ đồ thị đó chúng ta có thể suy ra ý nghĩ của họ.


4.2.3.   Thứ ba: Chữa bệnh bằng trường sinh học và ấn các huyệt đạo.


Trường sinh học biểu hiện trạng thái hào quang của sự sống trong cơ thể. Trong cơ thể sinh học có một cuộc vận hành liên tục của sự sống, đó là hệ tuần hoàn của oxy vào máu đào thải cặn bã, đó là quá trình ăn uống và bài tiết để tích lũy năng lượng cho cơ thể, đó là quá trình cảm giác và chỉ huy toàn bộ cơ thể của hệ thần kinh, làm khuấy động của một nhà máy hóa chất tạo ra các phản ứng hóa sinh … Toàn bộ quá trình vận động đó đã sinh ra một quá trình điện sinh học tương ứng mà ta gọi là quá trình lưu chuyển khí hải của cơ thể. Thần kinh được vận hành cũng là một quá trình điện sinh học theo đường dẫn nhất định. Dòng khí điện cơ thể đi bên trong, hoặc bên ngoài cơ thể giống như phóng điện tích trong không gian. Sự dao động của điện tích đã tạo ra trường sinh học của con người. Đó chính là vấn đề quan trọng cần được thí nghiệm chứng minh.


Sức mạnh của thầy chữa bệnh năng lượng là ở chỗ dòng điện đó đều đặn, trong sáng, hòa nhất với sự mạnh khỏe của người thầy. Mặt khác, bệnh nhân là một cơ thể thiếu năng lượng, yếu đuối và cần năng lượng của thầy. Năng lượng đó sẽ làm được điều gì? Xin thưa, năng lượng đó chính là vật chất khỏe, tốt đẹp, thay thế năng lượng bệnh hoạn. Quá trình trao đổi năng lượng là một quá trình từ từ, cần một thời gian lâu dài. Năng lượng tốt chuyển qua, năng lượng xấu lấy lại, giống như vòng tuần hoàn của máu trong cơ thể chúng ta. Thầy thuốc chính là phổi và bệnh nhân là tế bào trong cơ thể. Máu mới tràn đầy khí oxy sẽ đến ngược lại. Người chữa bệnh khí công thực chất sẽ phải nhận nhiều tạp chất vào mình. Vì vậy, phải luôn vận khí đào thải các tạp chất đó, tự day huyệt cho mình để thông thương lại chính huyệt đạo của mình đã bị tắc nghẽn do tạp chất của bệnh nhân đem lại.


Công tác day, ấn huyệt là để kích thích các nơi đó hoạt động mạnh lên, khai mở bế tắc khí hải, đem lại sảng khoái cho cơ thể. Huyệt đạo không cố định và có thể xê dịch chút đỉnh với năng lượng khí công, ta có thể rà soát và nhận ra vị trí theo thời điểm nằm ở đâu. Các huyệt đạo khi day tỏ ra đau đớn là huyệt bị tắc nghẽn. Khi đã thông huyệt, một luồng khí của ta sẽ sinh ra một dòng điện hào quang sinh học nối với các huyệt đạo kề bên. Quá trình niệm liệu pháp sẽ đưa dòng khí đó đến nơi có bệnh của bệnh nhân và thay thế khí bệnh tại đó. Khi chữa bệnh cho người ta chỉ nên dùng dòng khí ấm áp, đều đặn, không mạnh lắm, và khi đó, tâm hồn của ta phải trong sáng, tận tụy và yêu mến …


4.2.4.   Thứ tư: tương tác trường sinh học âm, dương sẽ sinh ra những đột biến vĩ đại.


Khi một cá thể tu dưỡng năng lượng trường sinh đạt đến chính quả, tức là: thấu hiểu và lấn át tuổi già, trở về cội nguồn tươi trẻ, tự thân họ tiến vào người thủy tinh (trao đổi chất toàn diện) và sống trong cảnh sắc thần tiên vô cực, ở đó một cá thể khác dấu (âm hoặc dương) nam hoặc nữ kết hợp với cá thể kia sẽ sinh ra những điều đặc biệt vĩ đại.


a.      Đào thải xấu lấy tốt: đó là quá trình trao đổi năng lượng khí hải, làm cho thân thể từng người càng mạnh hơn bởi họ trong sáng hơn.


b.      Quá trình chuyển khí âm dương giao hoà làm cho hai cá thể say sưa ngây ngắt, nhưng không cần trao đổi tinh dịch hoặc rụng trứng bởi vì quá trình đó đã dẫn đến hợp nhất trong vô cực. Dĩ nhiên, đó là một quá trình giao hoà vô sinh từng giai đoạn (vô sinh tức là vĩnh cửu, còn sinh tức là sẽ chết). Cái người trần tục trong chúng ta là mạnh lắm. Quá trình sinh sản tinh dịch là một quá trình tuần hoàn liên tục và mạnh mẽ bởi vì chính nó là cầu nối chúng ta với các hậu sinh. Bây giờ, chúng ta nên hiểu một cách đơn giản là kéo dài thời hạn xuất tinh lên vài ngày và một tuần thay vì ngay lập tức là một quá trình tương hỗ, giống như kéo dài tuổi thọ cá nhân vậy.


Tiến dẫn vào vô định tuyệt đối: ta hiểu rằng sinh vật rồi sẽ chết, vì nó là quá trình sinh sản và lão hóa. Quá trình tiến dần vào vô định trầm mặc như một cái cây, tảng đá hoặc chí ít giống như một con rùa, thì thảy đều sống lâu hơn chúng ta. Âm dương hoà quyện của hai người trao đổi năng lượng tạo ra một vòng tuần hoàn kín kẽ, tách biệt với bên ngoài, sẽ tạo ra không gian vô định tuyệt đối hoà quyện vào đó và đó chính là vũ trụ. Từ đây, con người bắt đầu thích nghi, chiếm hữu nó. Từ vũ trụ và đó là một khả năng tiến hóa vĩ đại của loài người.