– Chứng minh quá trình hình thành thuyết trường sinh.
– So sánh giữa con vật và con người.
– Sự phát triển đột biến tách con người khỏi thế giới động vật có vú nói riêng.
– Tư duy sáng tạo phát triển cao độ chứng tỏ quá trình tích lũy sức sống đang trên cao trào chuyển hóa sức mạnh của con người so với thiên nhiên và vũ trụ.
– Vòng tuần hoàn hơi thở và máu của con người (hơi thở thứ nhất).
– Hơi thở thứ 2.
– Khái quát quá trình sống của một đời người (dạng sinh hóa).
– Quá trình sinh sản nói lên điều gì?
– Linh hồn con người là gì?
– Tính sinh hóa của linh hồn con người.
– Cơ thể mất đi thì linh hồn đi về đâu?
Chứng minh quá trình hình thành thuyết Trường Sinh:
– Con người vốn yếu đuối hay đau đớn nên cố phải chữa bệnh và mong sao sống mãi, nên họ nghĩ ra cách uống (uống thuốc), tập thể dục thể thao và sống có chừng mực…
– Con người ưa đau đầu nên họ nghĩ ra cần phải ngừng nghĩ ngợi sinh ra thiền học, đưa dĩ vãng vào quên lãng, đưa con người vào bất động như là cây, là đá.
– Trong thiền học con người phát minh ra khí công.
– Trong khoa học con người hiểu biết về tính sinh hóa của con người ngày càng tinh vi sâu sắc.
1.1 So sánh giữa con vật và con người:
Dĩ nhiên, chúng ta chỉ giới hạn ở sự so sánh con người với động vật có vú. Nhìn chung cấu tạo xương gần giống nhau, chỉ con người có thay đổi do đứng thẳng nên cụt xương đuôi. Lục phủ ngũ tạng gần như tương đồng, điều khác biệt cực kỳ quan trọng là bộ não. Bộ não con người chiếm một tỷ trọng lớn so với tổng trọng lượng cơ thể khoảng 1/50, còn loài động vật bộ não chiếm tỉ trọng nhỏ hơn khoảng 1/100 trong lượng cơ thể. Ta có thể gọi động vật là con vật và người là con người. Sự phân hóa não bộ làm con người tách ra khỏi nhóm động vật. Sự đột biến kỳ lạ của não người có thể lý luận như sau: trong điều kiện bằng nhau về sinh quyển sáng tối, nắng mưa, đồi núi, sông nước và cây xanh, con vật và con người đã cùng tồn tại, thoạt đầu chúng ta có cùng nguồn gốc với động vật. Quá trình tiến hóa ngẫu nhiên qua hàng triệu năm bắt đầu từ lưỡng tính tự phân chuyển qua phối giống đực và cái, và rồi chuyển qua đẻ trứng và đẻ con (đẻ con là giống động vật có vú). Quá trình sinh sản lưỡng tính vẫn tồn tại ở dạng vi mô, ví dụ như tế bào phân đôi, phân tư, … phân ra mãi được vài trăm lần. Tập hợp tất cả các loại tế bào đó lại thành một cơ thể sống cho đến ngày nay là một qua trình biến đổi gen liên tục. Sự ngẫu nhiên từ vô định giản đơn và được phức tạp hóa, và hình thành muôn loài sinh vật trên trái đất mà điển hình là động vật. Quá trình hình thành động vật thật ra là một ngẫu nhiên giống như ta so sánh từng trường hợp động vật lại với nhau. Con này nhỏ hơn con kia, con này khỏe hơn con kia, con thì ăn lá hoa cây cỏ, con thì ăn thịt các loài động vật khác, con thì biết bay, con thì biết bơi, con thì chỉ chạy trên mặt đất, con thì đẻ trứng, con thì đẻ con, … Trong sự phát triển ngẫu nhiên hỗn độn đó đã sinh ra một dòng đặc sắc lạ lùng, không biết bơi, không biết bay, chạy không nhanh, mắt không tinh, tai không thính, tuy nhiên đặc biệt lại có bộ não phát triển hơn, giọng la hét trầm bổng đã tập hợp lại thành nhóm câu đối thoại. Các xác xuất ngẫu nhiên đã đúng một cách lạ lùng, giống như vũ trụ đã sinh ra trái đất này. Sai một li đi một dặm. Sự khôn ngoan hơn một chút trong cuộc sống đã tuần tự đưa sinh vật kỳ lạ biến thành con người ngày nay. Đối với chúng ta cần phải tự kích thích tiến hóa chính mình tự làm chủ vận mệnh, tiến hóa thích nghi với toàn vũ trụ bao la. Và đó là ý đồ của tôi trong cuốn Đại học Trường Sinh này.
1.2 Sự phát triển đột biến tách con người ra khỏi thế giới động vật nói chung:
Thực tế con người đang trong thời kỳ hoàn thiện ngôn ngữ, hoàn thiện thể chế xã hội, hoàn thiện tinh thần của chính mình. Con người đã tìm hiểu được luật lệ của vũ trụ và quy luật của cuộc sống. Tuy nhiên, sự sắp xếp tất cả các kiến thức đó giống như một mớ bòng bong chưa thể phân biệt đúng và sai, cái gì sẽ mất đi, cái gì sẽ tồn tại, cái gì tồn tại sai, cái gì tồn tại đúng, và đem lại hiệu quả gì cho xã hội tương lai. Ngày nay, chúng ta có thể nói là ta đã làm chủ được thiên nhiên, làm chủ nhân của trái đất (nhưng chỉ trong điều kiện ổn định bình thường, nhiệt độ dao động từ -500C đến 500C).
Chúng ta đang rất cần làm chủ được bản thân mình (uốn nắn được sự tiến hóa của bản thân mình). Tiếp theo phải đồng hóa mình với thiên nhiên, khắc khổ hơn nữa, và cuối cùng trở thành một cấu tạo thích nghi với vũ trụ.
Thực tế, tư duy sáng tạo phát triển cao độ chứng tỏ quá trình tích lũy sức sống đang trên cao trào chuyển hóa sức mạnh của con người so với thiên nhiên và với vũ trụ.
Con người vốn không mạnh nhưng nhờ phương tiện kỹ thuật mà mình sáng tạo ra có thể sống ở nhiệt độ cực thấp -2000C và nóng lên đến 2000C. Con người có thể bay, lặn và xâm nhập bước đầu vào các hành tinh bằng máy bay, tàu lặn, hay tàu vũ trụ.
Ở cuốn sách mà tôi hướng sự chú ý của các bạn vào bản chất thật sự của con người. Chúng ta sẽ đi tìm hiểu bên trong của con người để có thể tạo ra thêm sức mạnh, trí tuệ, cuộc sống dẻo dai thực sự cho con người mà không cần đến phương tiện kỹ thuật bao che hay bảo vệ.
Sức mạnh thật sự của con người là sức khỏe theo một thời gian dài hơn nhiều tuổi thọ hơn con người ngày nay: mắt vẫn sáng, trí óc càng minh mẫn lên theo thời gian, tình cảm với mỹ thuật, với khoa học và giữa loài người lúc nào cũng trìu mến bao la, trí tuệ vẫn năng động và đặc biệt trí tuệ sẽ được thăng hoa đột biến đến những sức tưởng tượng, sáng kiến kỳ diệu và giác quan kỳ lạ ở chính chúng ta, thậm chí ảnh hưởng đến chính con cái chúng ta.
1.2.1. Hơi thở thứ nhất :
Vòng tuần hoàn hơi thở và máu của con người. Chúng ta ai cũng biết con người hít oxy và thở ra khí Cacbonic. Đồ ăn, thức uống qua miệng vào dạ dày và ruột non tạo ra các chất vi lượng được chuyển vào máu, từ ruột non lên phổi để phân bổ điều hòa vào cơ thể. Các phần vi lượng tăng cao sẽ được dự trữ vào gan, lá lách, thận, phổi, tủy, não, tim, mỡ dưới da, hệ cơ, … và một số hệ phụ trợ khác. Toàn bộ cơ thể là một công ty lý, sinh hóa được điều khiển bởi một chính phủ được sắp đặt bằng hệ gen di truyền. Hệ di truyền này đã phát triển kế thừa, sàng lọc nhiều triệu năm qua. Toàn bộ quá trình lý sinh hóa biến chuyển vận hành nhịp nhàng đã đưa sự sống phát triển lên cao. Quá trình tư duy sáng tạo của loài người đã tự đưa chính mình đột biến thành sinh vật bá chủ thái dương hệ. Tuy nhiên, muốn chinh phục vũ trụ con người muốn bay vào không gian xa hơn cần phải được thích nghi khác đi không giống ngày hôm nay. Hơi thở thứ nhất là hít thở khí quyển trái đất, ăn và uống các sản phẩm của trái đất. Tuy nhiên, quá trình ổn định về sinh thái học trái đất ngày nay không thể vượt qua một triệu năm nữa. Trong thời gian không xa, điều kiện sinh lý hóa của trái đất sẽ đổi thay và gây ra cú sốc lý sinh hóa trong con người. Bởi vậy cứu cánh quan trọng của loài người là phải chấp nhận hơi thở thứ hai.
Hình ví dụ:
+ Về cơ thể sống: máu, thần kinh và các khu chức năng, hệ khung và hệ cơ.
+ Gen di truyền, thần kinh và các đột biến hóa học xảy ra do môi trường sống thay đổi.
Khái quát quá trình sống của một đời người (dạng sinh hóa)
Chúng ta hãy ví dụ một cơ thể người sống trong 99 năm và 9 tháng 9 ngày sống trong bụng mẹ, nói tròn là 100 năm sống. Trong quá trình thai nhi 9 tháng 9 ngày, thoạt tiên tế bào tinh trùng đã kết hợp với tế bào trứng xuất phát từ hai người (hai cá thể) đã hợp tác lại cùng thống nhất định nghĩa bắt đầu quá trình sống của một con người (dạng phôi). Quá trình phôi thai nói rõ rằng con người đã tiến hóa không ngừng dựa vào hình dáng phôi thai mà chúng ta cảm nhận được hàng triệu năm tiến hóa của động vật. Và cuối cùng con người đã hình thành từ thấp đến cao. Một thực thể vô cùng trí tuệ đã chào đời với cái đầu to và tứ chi yếu đuối. Quả thật con người là động vật có vú sinh ra trong trạng thái yếu đuối nhất. Loài động vật có vú mà ăn cỏ sau khi sinh vài giờ có thể đứng dậy đi qua đi lại được. Động vật có vú khác thì lâu hơn nhưng dù sao thì chúng bò được ngay đến vú mẹ, sau 10 ngày có thể đi lại được. Tuổi bò là 10 năm, tuổi của chó là 15 năm, của voi là 10 năm, của gà là 10 năm, của rùa là 20 năm, của chim Ưng là 30 năm, còn tuổi sức sống của người là 100 (năm sống)/16 (tuổi trưởng thành » 6 năm (tuổi sức sống bằng năm sống chia cho tuổi trưởng thành). Con người trưởng thành rất khó khăn. Sau 7 tháng bú sữa mẹ mới biết bò, một năm mới biết đi, sau đó phải đi học ở trường mẫu giáo 3 năm học, phổ thông trung học 12 năm, học đại học năm năm tiếp theo … 22 năm học tập từ khi không biết đi. Học Đại học Trường Sinh mất 5 năm đến 10 năm. Tại sao phải học nhiều như vậy? Bởi vì chúng ta là con người và con người phải cố học để làm chủ các phương tiện di chuyển, sản xuất sản phẩm vật chất và sản phẩm năng lượng cho chính mình. Quá trình phát triển đến tuổi trưởng thành 16 tuổi tương đương tốt nghiệp lớp 9/12 gọi là quá trình trưởng thành bậc 2 là từ 16 đến 24 tuổi (± 2). Quá trình trưởng thành bậc 3 là từ 24 đến 30 tuổi (hoặc 24 – 40). Quá trình bậc ba là quá trình chuyên môn hóa cao độ đưa trí tuệ con người đạt đến tính nhân văn kỹ thuật cao cấp.
Tuy nhiên, nghịch lý là tuổi thọ con người chỉ là 100 năm. Nhiều người đã có bệnh tật lúc 50 tuổi, 60 tuổi đã lão hóa và 80 tuổi đã suy yếu trầm trọng. Như vậy, chúng ta thực sống ở đâu? Trong xã hội ngày nay sau 16 tuổi đã chưa học xong điều gì. Quá trình trưởng thành bậc một chỉ đưa con người thoát khỏi mù chữ, cơ thể chưa đủ khỏe mạnh lắm, học vấn xã hội quá thấp chỉ đáng làm công dân bậc ba. Như vậy, 16 tuổi chưa thể gọi là sống thực sự mà chỉ vẫn là sống nhờ (nhờ bố mẹ và xã hội). Từ 16 – 24 (± 2), thời gian này là thời gian đáng yêu nhất của đời người, có thể nói đây là thời gian nửa hưởng thụ, nửa học hành, tuy nhiên tiền bạc vẫn nhờ bố mẹ hoặc xã hội.
Thời kỳ vàng son là thời kỳ thứ ba (24 – 30 hoặc 24 – 40): Thời kỳ phổ cập học tập đã qua, thời kỳ này là thời kỳ sung sức nhất trong công việc và thời kỳ phát triển nảy nở nhất, là thời kỳ hạnh phúc nhất với một gia đình và con cái. Đây là thời kỳ khẳng định nhân cách, tính cách, quan điểm sống của con người.
Thời kỳ thứ tư là thời kỳ 30/40 – 60/70: thời kỳ anh hùng nhất của đời người. Đàn ông thì thành đạt, đàn bà thì thành đạt và nuôi con khôn lớn. Đó là những chủ nhân của xã hội cho lớp nhỏ noi theo. Đây là thời kỳ vẫy vùng mạnh mẽ nhất trong cuộc sống một đời người.
Thời kỳ cuối cùng: quá trình lão hóa đã từ từ hủy diệt cơ thể sống. Tâm hồn (linh hồn) con người đang mạnh mẽ tràn đầy tình yêu cuộc sống nhưng cơ thể đã không đồng tình với ta. Tạo hóa đã phân loại ta, ta cố sức duy trì sức khỏe một mực ra đi. Trí tuệ ta đang đạt đến đỉnh cao vời vợi trong khi sức lực ta xuống thấp như thế. Sự phẫn nộ của linh hồn mãnh liệt trong cơn suy vi của cơ thể đã đưa con người ngẫu nhiên đạt đến giác quan thứ sáu, thứ bảy. Linh hồn con người đã tồn tại vượt qua cái chết của cơ thể mình, và linh hồn sẽ bay về đâu?
Chúng ta quay về thực tại một cuộc sống của con người. Thật ra có mấy ai sống được 100 năm, phần lớn là 80 năm thôi. Tuổi sức sống của con người là 80/16 » 5 năm. chúng ta có quá ít thời gian sáng tạo, để hạnh phúc và không đủ thời gian sống để thực hiện mục đích giang hồ to lớn nhất – du lịch đến tất cả các quốc gia trên thế giới và thâm nhập vào vũ trụ bao la. Vì vậy, tôi khuyên mọi người chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ. Hãy để cho tuổi thọ sức sống của con người bằng gia súc chúng ta nuôi, bằng rùa, rắn và chim ưng. Tất cả các gia súc đó đều có tuổi sức sống là 10 năm tuổi đến 20 năm tuổi?
1.2.2. Quá trình sinh sản nói lên điều gì?
Thật ra tạo hóa là một người thầy, một chính phủ điện tử đã bắt loài người phải tuân thủ hệ thống ngẫu nhiên bắt buộc sau đây:
a. Con người là sinh vật có vú bậc cao nhất có nhiệm vụ là chủ trái đất và bầu trời.
b. Con người là một cơ thể yếu nhất (không hoàn thiện) nhưng có trí tuệ thông minh nhất do học trong môi trường sống mà ra.
c. Thế giới vật chất của địa cầu tạm thời ổn định, các sinh vật khác tạm thời bị ru ngủ bằng hệ nhiễm sắc thể của chúng như cây cối, hoa lá và những động vật khác xung quanh ta. Chúng được cho là ổn định, tuổi thọ càng cao càng sống hàng ngàn năm. Thú vật sống từ 10 – 30 năm tuổi sức sống.
Tuy nhiên, con người không bị ru ngủ họ chỉ sống có 5 năm tuổi sức sống. Họ sẽ phải chết để sinh sản ra con cháu của mình.
d. Vì địa cầu ổn định nên con cháu của loài người đã học tập những sáng tạo của bố mẹ chúng để lại. Kiến thức bằng không khi sinh ra cộng với kiến thức sáng tạo tại thời điểm về sau là kiến thức tốt hơn, thông minh hơn. Do đó loài người sẽ sống tốt hơn, họ thông minh hơn, sống lâu hơn và có nhiều phương tiện kỹ thuật giúp đỡ con người hơn.
f. Con người tuy có đời sống ngắn nhưng kế thừa được kiến thức mới (loại bỏ kiến thức cũ) và quá trình thông thái hóa diễn biến liên tục đời này qua đời khác sẽ tạo ra một giống nòi người đột biến, tiến hóa đến nỗi làm chủ được tiến hóa của mình thống trị được thiên nhiên, vượt qua được dao động biến đổi khắc nghiệt hơn của trái đất, của vũ trụ.
g. Quá trình sinh sản tạo ra con người trẻ cho xã hội làm cho tư duy xã hội thêm năng động. Qua phân tích trên loài người ngày một thông minh hơn. Tuy nhiên, giới hạn về cuộc sống đã sinh ra nhiều mâu thuẫn làm loài người hoài công suy nghĩ.
Con người phải vì bản thân mình. Tại sao chúng ta không thể sống 10 – 30 năm tuổi sức sống giống gia súc ta nuôi? Như là 16 x 20 năm = 320 năm? Hoặc hơn thế nữa 16 x 30 năm = 480 năm. Hoặc con người có thể tiệm cận tuổi của cây cối có thể sống hàng ngàn năm.
1.2.3. Nếu thế quá trình sinh sản trong tương lai sẽ là:
a. Con người làm chủ trái đất và vũ trụ.
b. Con người có một cơ thể khỏe mạnh bền vững các bộ phận cơ thể thay thế hoặc một lúc hoặc chuyển hóa từ từ để biến đổi mới toàn diện. Nhưng trí tuệ quá xuất sắc của con người đưa con người vào vũ trụ và chính học cần thiết phải học tập nhiều hơn quá trình trưởng thành lâu hơn. Cuộc sung đột giữa trí tuệ và tuổi sức sống vẫn tiếp diễn.
c. Tuổi thọ tăng cao thì quá trình sinh sản chậm lại bởi vì mục tiêu sinh sản sẽ phải được quản lý sao cho con cái sinh ra đủ sức khỏe và trí thông minh phù hợp với thời kỳ mới.
d. Con người tuy tuổi cao nhưng vẫn trẻ trung, sáng suốt. Quá trình tiến hóa dạy rằng họ luôn luôn tâm niệm để quay lại tuổi sơ sinh, trở về với vô định với tạo hóa để suy xét về bản thân và thế giới, và cùng lúc tự phá bỏ kiến thức cũ thay vào đó là kiến thức mới. Các sáng kiến sẽ liên tục phát triển làm cho não bộ của con người luôn luôn đổi mới. Trí tuệ sẽ cải tạo chính bản thân con người. Quá trình chuyển hóa đó dần dần đưa con người đến những định mức kỳ diệu. Tính di truyền bị tác động trực tiếp và loài người sẽ được phân hóa thành các hệ quả khác nhau trong vũ trụ bao la.
e. Quá trình sinh sản sẽ đổi thay. Mỗi người sẽ có một đứa con mạnh mẽ, thông minh và giống chính bản thân mình.
1.2.4. Linh hồn con người là gì?
Chúng ta vẫn hiểu rằng cơ thể con người là yếu đuối. Cả một tập hợp xương cốt máu thịt thần kinh và lục phủ ngũ tạng tạo ra hình dáng con người. Quá trình vận hành nội tiết sinh ra nhiều lỗi và càng sống lỗi nội tiết càng nhiều. Cơ thể theo thời gian mà suy yếu.
Cơ thể yếu đuối, nhưng con người ham đi nhanh, bay nhanh, ham dùng độc dược như thuốc phiện, thuốc lá, rượu mạnh, ham mạo hiểm, thích phiêu lưu, không bị ru ngủ bởi cuộc sống bình dị mà lúc nào cũng khao khát giang hồ. Chính vì vậy mà sanh ra nhiều tai nạn thương tật, chết người.
Con người phiêu lưu bằng cả trí óc của mình, tự sanh ra nhiều tôn giáo khác nhau, thể chế xã hội khác nhau. Sự ngây thơ của họ đã dẫn đến đấu khẩu, đấu võ, dùng vũ lực, dùng trí tuệ chèn ép nhau, tiêu diệt nhau. Những cuộc giao tranh đẫm máu xưa kia và hôm nay đã đem lại lợi ích gì cho thế giới này?
Con người yếu đuối nhưng sốc nổi, tuy vậy trí tuệ của họ luôn mạnh mẽ trẻ trung, tâm hồn phơi phới sẵn sàng phiêu du đấu tranh. Trong những khoảng khắc phấn chấn, sung mãn sức lực thì thần khí con người rất sắc. Linh hồn con người cư trú trong thân thể họ. Các bộ gen di truyền đã quy định hệ gia đình giống nhau từ bố sang con, từ con sáng cháu, chắt, … và linh hồn cũng sẽ chuyển qua nhau theo đường không gian. Linh hồn con người là một thực thể vật chất hiện hữu nó luôn mạnh mẽ cho đến khi cơ thể chết đi, linh hồn được trỗi dậy lần cuối. Bộ máy yếu ớt trước khi trút hơi thở cuối cùng đã tự sung mãn vận chuyển một lượng khí thải to lớn duy nhất cuối cùng từ những nguồn năng lượng còn lại kết tinh thành linh hồn mang thông tin về con người vừa mới qua đời đó.
Linh hồn là một dạng vật chất năng lượng thấp có tính sóng điện có thể lan rất xa, nó tìm những cơ thể sống có từ trường thích nghi nhất để trú ngụ và lưu giữ thông tin mà nó mang theo, thậm chí những thông tin mới, độc lập mà nó tự ghi nhận trong cuộc sống mới trong cơ thể của người khác. Thậm chí linh hồn có thể sống và tồn tại bằng tuổi của con người: 100 năm và lâu hơn thế nếu nó lại được truyền qua một cơ thể sống khác phù hợp với năng lượng của nó.
Có một số người có năng khiếu bẩm sinh hoặc do học tập có thể xuất hồn và thu hồn lại. Đại học Trường Sinh sẽ chỉ điểm cho chúng ta cách học và những lý luận về tâm hồn con người.
Con người càng nhiều năng lượng thì linh hồn càng mạnh mẽ sinh động. Người thường không tập luyện khí công cũng vẫn có chu kỳ khí vận trong cơ thể nhưng ở dạng rất thấp. Có một số người bẩm sinh năng lượng khí tự tồn tại ở dạng cao hơn cho nên có linh hồn mạnh mẽ, có linh hồn yếu mềm thoáng qua. Khi tập luyện khí công lâu năm dòng điện trong cơ thể rất mạnh mẽ sự vận động khí như sóng điện cuộn chảy khắp cơ thể làm cơ thể nóng hơn người thường khoảng 10C. Từ trường của nhà khí công tỏa rộng và tạo cảm giác êm đềm cho mọi người xung quanh. Với một xung động trong cơn ức chế mãnh liệt, nhà khí công có thể xuất hồn để kìm hãm hoặc khuyến khích một người, một vật, thậm chí vật thể làm theo ý mình.
1.2.5. Tính sinh hóa của linh hồn con người:
Thực chất đã có rất ít người nghiên cứu về tính sinh hóa của năng lượng khí công cho nên chưa ai nghiên cứu về tính sinh hóa của linh hồn con người. Các trường Đại học Y khoa mới chỉ nghiên cứu về tế bào, và cấu tạo toàn diện của cơ thể con người, và gần đây chúng ta mới đọc được mã gen di truyền của người.
Tôi thật sự mong muốn thành lập một trường Đại học Trường Sinh để lập một phòng thí nghiệm lý sinh hóa về năng lượng của con người. Cần phải hiểu rõ năng lượng khí cấu tạo ra sao? Cường độ bao nhiêu? Thường năng lượng của con người được đo bằng gì? Ảnh hưởng của năng lượng khí làm thay đổi cấu trúc tế bào ra sao? Hệ thông tin của năng lượng sinh học như thế nào? Năng lượng lan truyền trong không gian như thế nào? Năng lượng truyền trực tiếp qua cơ thể người thứ hai sẽ gây phản ứng chữa bệnh như thế nào? Cách đo cường độ trường năng lượng được phát ra từ một nhà khí công?
Năng lượng vũ trụ thâm nhập vào cơ thể như thế nào? Nó tồn tại dưới dạng vật chất gì?
Về tâm lý học sẽ có nhiều điều lý thú được mô tả ở những trang sau. Trường Đại học sẽ phải phân tích một tổng thể ý thức tâm lý của loài người hiện đại để định hướng cho tương lai của chúng ta.
Quay lại câu hỏi về tính sinh hóa của linh hồn, và là linh hồn nên nó hiện diện trong lương tâm của con người. Nó tạo ra một thực thể thứ hai giúp đỡ cho chính bản thân ta. Hơi thở thứ hai đã tạo năng lượng trường sinh học và củng cố linh hồn ta vững mạnh, bất khuất trước cuộc sống và bảo vệ sức sống của chính con người chúng ta.
1.2.6. Cơ thể mất đi thì linh hồn đi về đâu?
Phần trước chúng ta đã lý giải về điều này. Nhưng lý giải đó là cho hôm nay. Một mai kia khi loài người đã biến đổi sống lâu và cực kỳ thông minh thì linh hồn con người rồi sẽ mãnh liệt hơn, con người có thể dùng ảnh hưởng của nó để phát triển cơ thể của mình, có thể lưu giữ linh hồn tạo ra một sức sống thật sự cho nó để linh hồn có thể mang cả thuộc tính vật lý sức mạnh. Đó là những người máy sinh học có sức mạnh và trí tuệ luôn sáng tạo vĩnh hằng của con người. Đó là giấc mơ thần tiên của loài người từ xưa tới nay.
Theo tín ngưỡng Kỳ Na giáo, linh hồn khoác lấy bề ngoài của cơ thể mà nó trú ngụ bên trong. Vì rằng kiếp sống sau cùng trước khi được giải thoát phải là kiếp người cho nên Siddha hay linh hồn giải thoát ở trên mái nhà vũ trụ phải chọn lấy một hình dạng con người, dù rằng nó đã không còn vướng bận với thân xác và không có hình thể vật chất. Bức tượng bằng kim loại của vị Siddha đã lìa khỏi xác có thể dùng làm một tiêu điểm thiền định về mục tiêu của đạo Kỳ na: giảm bớt mọi sự liên hệ với cuộc sống trên thế gian này và làm cho linh hồn không vướng bận sự sở hữu vật chất nữa.